Nghị quyết 05/2002/NQ-CP

Nghị quyết số 05/2002/NQ-CP về một số giải pháp để triển khai thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2002 do Chính Phủ ban hành

Nội dung toàn văn Nghị quyết 05/2002/NQ-CP giải pháp để triển khai thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2002


CHÍNH PHỦ
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 05/2002/NQ-CP

Hà Nội, ngày 24 tháng 4 năm 2002

 

NGHỊ QUYẾT

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 05/2002/NQ-CP NGÀY 24 THÁNG 4 NĂM 2002VỀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ TRIỂN KHAI THỰC HIỆNKẾ HOẠCH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2002

Qua hơn 3 tháng triển khai thực hiện kế hoạch năm 2002, nền kinh tế nước ta đã gặp phải nhiều khó khăn và thách thức rất lớn cả ở trong nước và ngoài nước, nhưng với sự nỗ lực phấn đấu rất cao của các Bộ, địa phương và các cơ sở sản xuất kinh doanh, cùng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, nhiều cơ chế chính sách và các biện pháp đưa ra từ đầu năm đã được triển khai thực hiện tốt. Nhờ vậy, tình hình kinh tế - xã hội có chuyển biến tích cực trên một số lĩnh vực: công nghiệp tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng cao; vốn đầu tư toàn xã hội đạt khá, nhất là đầu tư thuộc ngân sách nhà nước và đầu tư khu vực dân cư; dịch vụ có bước phát triển, thu ngân sách nhà nước đạt khá.... Kết quả đạt được trong qúy I năm 2002 tuy thấp hơn so với cùng kỳ năm 2001 và kế hoạch cần phải đạt được cả năm 2002, nhưng đây là một cố gắng rất lớn, cần được phát huy trong thời gian tới.

Bên cạnh những chuyển biến tích cực nêu trên, tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn rất khó khăn: kim ngạch xuất khẩu đạt thấp và giảm nhiều so với cùng kỳ năm 2001; sản xuất nông nghiệp đang đứng trước nhiều thử thách lớn, đặc biệt là hạn hán kéo dài và khốc liệt hơn mọi năm, nạn cháy rừng xảy ra nghiêm trọng; sản xuất công nghiệp ở một số trung tâm công nghiệp lớn tăng trưởng chưa ổn định; một số lĩnh vực xã hội chưa được cải thiện đáng kể, đời sống nhân dân trong vùng thiên tai còn nhiều khó khăn.

Nhiệm vụ còn lại trong các tháng tới là hết sức nặng nề. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trên đây, nhằm hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2002 và tạo đà thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương, trước hết cần phải quán triệt và triển khai thực hiện tốt các nhóm giải pháp đã được Quốc hội thông qua, đồng thời khẩn trương triển khai một số giải pháp bổ sung điều hành kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2002 như sau:

I. THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ:

Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế được coi là nhóm giải pháp vừa có tính cấp bách trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài. Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ. Trước mắt, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau đây:

1. Công tác quy hoạch để chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước, thế mạnh và chỗ yếu của sản phẩm nước ta trong từng giai đoạn, từ đó xác định lộ trình nâng cao khả năng cạnh tranh cho từng sản phẩm ở từng vùng khác nhau. Quy hoạch phải theo vùng, không quy hoạch đơn thuần theo địa bàn cấp quản lý hành chính và phải được hiệu chỉnh kịp thời đáp ứng thay đổi nhu cầu của thị trường. Theo quy hoạch đã được xác định, các cơ quan chức năng cần tập trung tổ chức thực hiện quy hoạch, nhanh chóng xây dựng chương trình đầu tư gắn với doanh nghiệp và các hộ sản xuất theo một cơ cấu phù hợp, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế.

2. Tiếp tục thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã được quy định trong Nghị quyết số 05/2001/NQ-CP ngày 24 tháng 5 năm 2001 của Chính phủ về bổ sung một số giải pháp điều hành kế hoạch kinh tế năm 2001 và triển khai có điều chỉnh các nội dung quy định tại Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP ngày 15 tháng 6 năm 2000 của Chính phủ về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Đẩy mạnh tiến độ thực hiện dự án trồng 5 triệu ha rừng, kết hợp với chương trình trồng cây nguyên liệu làm 1 triệu tấn bột giấy và giấy trên cơ sở quy hoạch gắn các nhà máy sản xuất giấy, bột giấy với vùng nguyên liệu.

Phát triển chăn nuôi với mức tăng trưởng nhanh hơn trồng trọt, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, kể cả về thịt, sữa, da. Bộ Công nghiệp phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các Bộ, địa phương có liên quan sớm hoàn chỉnh đề án quy hoạch phát triển các nhà máy chế biến sữa bò gắn với các vùng nguyên liệu theo tinh thần Quyết định số 167/2001/QĐ-TTg ngày 26 tháng 10 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp và chính sách phát triển chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010 để trình Thủ tướng Chính phủ.

Thủy sản là một thế mạnh, có thể và cần được tăng trưởng nhanh. Bộ Thủy sản chủ trì, cùng với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rà soát lại quy hoạch, bố trí những vùng đất ven biển thích hợp cho nuôi trồng thủy sản, chuyển diện tích đất trồng lúa bấp bênh, hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy sản. Bộ Thuỷ sản xây dựng chương trình, kế hoạch đầu tư cụ thể hoặc hướng dẫn các địa phương, các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển giống tôm, cá; hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, phòng, chống dịch bệnh.

Cùng với việc rà soát điều chỉnh các chính sách đã ban hành, bổ sung các chính sách mới nhằm khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo đúng quy hoạch, kế hoạch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo xây dựng và tổng kết các mô hình chuyển đổi cơ cấu đạt hiệu quả cao để nhân ra diện rộng.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khẩn trương xây dựng đề án về trang thiết bị cho công tác phòng hộ rừng, phòng, chống cháy rừng để có đủ khả năng xử lý khi có sự cố.

3. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp chế tạo, nhất là các ngành và sản phẩm công nghiệp sử dụng công nghệ cao, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, như: dệt may, giày dép, cơ khí chế tạo, chế biến lương thực, thực phẩm và nông sản... khuyến khích phát triển vùng nguyên liệu, tạo nguồn nguyên liệu ổn định và lâu dài để phục vụ cho các ngành công nghiệp chế biến.

Yêu cầu đối với các ngành công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, viễn thông, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, đặt biệt là ngành dệt may, da giày là không chỉ tăng nhanh sản lượng mà phải nâng cao phần giá trị do trong nước tạo ra trong tổng giá trị sản phẩm.

Thực hiện các dự án phát triển ngành điện, than, khai thác và chế biến dầu, khí, bảo đảm sự phát triển cân đối, an toàn về năng lượng. Tăng nhanh năng lực chế tạo cơ khí, trước hết là cơ khí phục vụ nông, lâm, ngư nghiệp. Phát triển có lựa chọn các cơ sở khai thác quặng, luyện kim, hoá chất, phân bón, vật liệu xây dựng. Tích cực đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp quốc phòng.

Các Bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (dưới đây gọi tắt là tỉnh, thành phố) chỉ đạo các cơ sở sản xuất tăng sức cạnh tranh trên cơ sở sắp xếp lại sản xuất, đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ quản lý. Các Bộ quản lý ngành phải cùng với các hiệp hội doanh nghiệp, các Tổng công ty tiến hành xây dựng quy hoạch sản xuất đối với từng ngành hàng, có phương án cụ thể để phát triển mạnh những sản phẩm chủ lực, trọng yếu, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, trực tiếp tạo ra giá trị làm tăng trưởng kinh tế, đồng thời có biện pháp thích hợp hỗ trợ những doanh nghiệp và sản phẩm đang thua kém các nước xung quanh về chất lượng, giá cả.

4. Chuyển dịch mạnh các ngành dịch vụ theo hướng tập trung đầu tư phát triển các ngành dịch vụ có khả năng thu hồi vốn nhanh, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước như du lịch, dịch vụ tài chính ngân hàng, vận tải hàng không, dịch vụ bưu chính viễn thông.... Phát huy mọi nguồn lực của Nhà nước và xã hội để phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ đáp ứng sự phát triển toàn diện con người như giáo dục, y tế và thể thao. Mở rộng các dịch vụ phục vụ đời sống công cộng và sinh hoạt gia đình.

5. Tăng cường sự chỉ đạo, điều hành của các Bộ đối với các vùng kinh tế trọng điểm, nhất là công tác quy hoạch, kế hoạch, đầu tư (Bộ Kế hoạch và Đầu tư); khoa học, công nghệ, môi trường (Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường); đào tạo nghề (Tổng cục dạy nghề, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội); tăng cường sự phối hợp, liên kết giữa các tỉnh, thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm với các tỉnh ngoài vùng, hình thành một số tổ chức hiệp hội để phối hợp thúc đẩy phát triển vùng kinh tế trọng điểm.

Chính phủ và toàn xã hội tích cực hỗ trợ những vùng khó khăn, đặc biệt là vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, gắn với chương trình xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm.

Ưu tiên giải quyết nước sinh hoạt cho nhân dân, nước uống cho gia súc; cố gắng tối đa đảm bảo nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp; thúc đẩy triển khai các dự án xây dựng công trình thuỷ lợi để tăng năng lực dự trữ nước vào mùa mưa, điều tiết nước vào mùa khô. Khắc phục hạn hán phải đi liền với phòng, chống cháy rừng, lũ bão.

Các Bộ cùng với chính quyền địa phương, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải miền Trung điều chỉnh quy hoạch sản xuất, hệ thống kết cấu hạ tầng và địa bàn dân cư, tập trung chống sạt lở bờ sông, bờ biển để chủ động phòng tránh bão, lũ; tổ chức chỗ an toàn cho ngư dân neo đậu tầu thuyền khi có bão. Tạo điều kiện cho dân ở đồng bằng sông Cửu Long có cuộc sống an toàn, ổn định, ít phải di dời, duy trì được việc đi lại, học tập, khám chữa bệnh khi có lũ lụt xảy ra.

6. Các Bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, Tổng công ty 91 khẩn trương xây dựng phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, tập trung chỉ đạo và thực hiện việc sắp xếp lại các Tổng công ty, đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (Khoá IX) và Chương hành động của Chính phủ. Thực hiện tốt các chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước quy định tại Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ để giúp người lao động có việc làm mới. Việc xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước cần tiến hành theo hướng cơ quan có thẩm quyền quyết định chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước quyết định thành lập Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp hoặc lựa chọn các công ty kiểm toán, tổ chức kinh tế có chức năng định giá để trực tiếp ký hợp đồng xác định giá trị doanh nghiệp.

Các Bộ, địa phương cần tạo điều kiện về tài chính, đất đai, thị trường, giống, kỹ thuật và đào tạo nghề để kinh tế hợp tác và hợp tác xã có bước tiến mới hỗ trợ, bổ sung cho kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại; để doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển đa dạng về loại hình, về ngành nghề, thực sự là lĩnh vực góp phần quan trọng vào việc tạo ra của cải, giải quyết việc làm, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Các Bộ, chính quyền địa phương chủ động, tích cực triển khai Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá IX), phấn đấu thực hiện tốt phương châm "Toàn dân thi đua làm kinh tế giỏi, từng nhà làm giàu cho mình, cho cộng đồng cơ sở và cho đất nước".

II. ĐẨY MẠNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ KÍCH CẦU TIÊU DÙNG:

1. Các Bộ và các tỉnh, thành phố rà soát lại các chương trình, dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước để bố trí đầu tư tập trung, có trọng điểm, theo mục tiêu kế hoạch. Bố trí đủ vốn đối ứng cho các dự án ODA nhằm bảo đảm tiến độ theo hiệp định đã được ký kết, đặc biệt là các dự án hoàn thành vào năm 2002 và năm 2003. Chỉ bố trí vốn khi các dự án khởi công mới đã có đầy đủ thủ tục đầu tư theo quy định hiện hành. Các Bộ và địa phương chỉ đạo các chủ đầu tư khẩn trương thực hiện công tác đấu thầu và các bước tiếp theo để các dự án khởi công mới được triển khai đúng tiến độ.

Các địa phương có nguồn thu lớn nhờ việc triển khai thực hiện các cơ chế đổi đất lấy công trình, thưởng vượt thu ngân sách, một số khoản thu và phụ thu được phép để lại... cần bố trí vốn cho các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội và đổi mới công nghệ của những dự án đầu tư đang hoạt động, trên cơ sở tuân thủ đúng thủ tục đầu tư theo quy định hiện hành.

Các Bộ, địa phương đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép kéo dài vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc kế hoạch năm 2001 sang năm 2002 phải khẩn trương hoàn thành khối lượng còn lại; đồng thời có trách nhiệm triển khai nguồn vốn đã được Thủ tướng Chính phủ bổ sung kế hoạch năm 2002 tại Quyết định số 216/2002/QĐ-TTg ngày 25 tháng 3 năm 2002 và Thông báo số 17 BKH/TH ngày 05 tháng 4 năm 2002 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho một số công trình và nhiệm vụ cấp bách năm 2002.

2. Bộ Tài chính tiếp tục ứng trước vốn cho các chủ đầu tư thực hiện các dự án chuyển tiếp, các dự án quan trọng để bảo đảm thi công liên tục, theo đúng tiến độ. Cơ quan cấp trên của chủ đầu tư có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi tiến độ và giám sát việc sử dụng đúng mục đích số vốn được ứng trước. Các cơ quan tài chính không ứng trước vốn, không thanh toán vốn cho các dự án không thực hiện đúng các quy định hiện hành về quản lý đầu tư và xây dựng.

3. Các Bộ, địa phương tổ chức thẩm định và phê duyệt dự án theo ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ đối với các dự án nhóm A đã có danh mục trong quy hoạch được duyệt hoặc đã có chủ trương đầu tư, không phải lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi mà lập ngay báo cáo nghiên cứu khả thi.

Giao Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi đối với các dự án nhóm B, C do các Tổng công ty 91 quản lý đã nằm trong quy hoạch hoặc được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong kế hoạch 5 năm, không phân biệt nguồn vốn đầu tư và tự chịu trách nhiệm trong việc bảo đảm nguồn vốn để dự án triển khai thi công đúng tiến độ.

4. Các chủ dự án đầu tư phải tính toán đầy đủ các công việc liên quan đến giải phóng mặt bằng (diện tích cần giải toả, số dân cần tái định cư, các tài sản khác của dân, của tập thể, của Nhà nước... phải di chuyển) để làm cơ sở tính đủ yêu cầu vốn đầu tư, có kế hoạch triển khai phù hợp, sát thực theo đúng tiến độ thực hiện dự án. Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố xác định khung giá đền bù và quyết định cụ thể giá đền bù phù hợp với khung giá của Nhà nước, tổ chức, chỉ đạo việc giải phóng mặt bằng trước khi triển khai thực hiện dự án.

5. Các dự án thuộc nhóm B, C không phải đấu thầu quốc tế, được phép áp dụng hình thức chỉ định thầu đối với các gói thầu tư vấn, thiết kế; được phép áp dụng hình thức chào hàng cạnh tranh đối với: các gói thầu xây lắp khi đã có thiết kế kỹ thuật và dự toán được duyệt và các gói thầu mua sắm thiết bị khi đã hội đủ các thông số kỹ thuật. Chủ dự án tự quyết định và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật toàn bộ các nội dung liên quan đến chỉ định thầu và chào hàng cạnh tranh.

Các dự án sử dụng 100% vốn trong nước, không bắt buộc phải qua đấu thầu quốc tế, trừ những phần thiết bị, công nghệ cao nước ta chưa sản xuất được phải nhập của nước ngoài. Trường hợp cần thiết, các dự án loại này được phép thuê chuyên gia tư vấn, giám sát trong và ngoài nước hoặc mua công nghệ để chế tạo ở trong nước.

6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan trong quý II năm 2002 tổng kết, đánh giá các chương trình, giải pháp đã thực hiện về kích cầu đầu tư - tiêu dùng; xem xét kỹ các mặt được, chưa được đối với từng lĩnh vực, từ đó xây dựng chương trình tổng thể, đồng bộ về kích cầu đầu tư - tiêu dùng trong thời gian tới nhằm đạt mục tiêu thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ưu tiên phát triển những ngành, những sản phẩm có khả năng cạnh tranh, những vùng, khu vực phát huy được lợi thế sẵn có; khuyến khích thu hút đầu tư.

7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi, tháo gỡ các vướng mắc về đất đai, tài chính, tín dụng, lao động tiền lương, hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ, thông tin, xúc tiến thương mại để thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển theo hướng không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, đầu tư nhiều hơn vào khu vực sản xuất, hợp tác liên doanh với nhau và với các thành phần kinh tế khác.

8. Trong quý II năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định số 36/CP ngày 24 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ về ban hành Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao. Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu xây dựng đề án thí điểm thực hiện một số hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mới như công ty quản lý vốn, công ty hợp danh, các quỹ đầu tư...; quy chế phân công, phân cấp và phối hợp quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài để trình Chính phủ ban hành vào qúy III năm 2002.

Đến hết quý II năm 2002, các Bộ đã được giao nhiệm vụ, phải hoàn thành việc ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24 tháng 11 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn.

9. Các địa phương cần sử dụng ngân sách địa phương để hỗ trợ đầu tư xây dựng mạng lưới chợ, trước hết là các chợ trung tâm thị trấn, thị xã và thành phố, các chợ chuyên bán nông sản và các chợ đầu mối tập trung của các vùng kinh tế.

10. Ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ thông qua Quỹ Hỗ trợ phát triển để đầu tư kết cấu hạ tầng và hỗ trợ các dự án về đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất muối nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và bảo đảm cung ứng đủ mặt hàng này cho nhu cầu trong nước. Bộ Tài chính phối hợp với các Bộ liên quan trình Thủ tướng Chính phủ nguyên tắc hỗ trợ và hướng dẫn thực hiện từ quý II năm 2002.

11. Doanh nghiệp sản xuất và lưu thông vật tư máy móc nội địa phục vụ nông - ngư nghiệp được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước để thực hiện hoặc hỗ trợ việc thực hiện các phương thức mua bán trả góp, trả chậm, đại lý và hợp đồng hai chiều với nông dân. Bộ Tài chính phối hợp với các Bộ liên quan trình Thủ tướng Chính phủ nguyên tắc hỗ trợ và hướng dẫn thực hiện từ quý II năm 2002.

12. Các Ngân hàng Thương mại quốc doanh đẩy mạnh cho vay trung dài hạn; đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Quỹ Hỗ trợ phát triển mở rộng hình thức cho vay hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.

13. Để ngăn chặn ngay tình trạng đầu cơ mua đi bán lại nhà ở, đất ở trái pháp luật, gây "sốt" giá nhà ở, đất ở tại nhiều địa phương, đặc biệt là khu vực đô thị, Chính phủ giao Bộ Xây dựng kiểm tra, rà soát lại cơ chế, chính sách, đề xuất trình Thủ tướng Chính phủ các biện pháp ổn định thị trường nhà ở, đất ở. Các tỉnh, thành phố phải kiểm tra ngăn chặn xử lý nghiêm minh việc mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp và chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất xây dựng nhà ở, trái với các quy định của pháp luật hiện hành và trái quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt; tiến hành ngay việc rà soát lại các dự án về xây dựng nhà ở, có biện pháp xử lý và ngăn chặn kịp thời tình trạng chủ đầu tư cắt đất, bán nền nhà chia nhỏ dự án để bán đất; kiểm tra và xử lý nghiêm đối với những trường hợp mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất trái pháp luật, cấp đất không đúng thẩm quyền; những dự án đã được phê duyệt nhưng không triển khai xây dựng theo tiến độ và làm trái quy định, trái quy hoạch phải được chấn chỉnh hoặc thu hồi giấy phép đầu tư, thu hồi quyết định giao đất, cho thuê đất.

14. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố cần khẩn trương xây dựng chương trình phát triển nhà ở, thống nhất chủ trương này trong Tỉnh ủy và Hội đồng nhân dân để chương trình này trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mình. Tập trung chỉ đạo thật tốt công tác quy hoạch khu dân cư trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch tổng thể phát triển đô thị, nông thôn; phải quản lý xây dựng theo quy hoạch, chấm dứt tình trạng xây dựng không theo quy hoạch. Các đô thị phải phát triển nhà ở theo dự án và coi việc xây dựng nhà ở chung cư cao tầng là giải pháp chủ yếu để cải thiện điều kiện sống cho người dân ngày càng tiện lợi, văn minh.

15. Tại các thành phố, đi đôi với việc xây dựng nhà ở mới, phải tập trung chỉ đạo triển khai việc cải tạo, xây dựng lại nhà ở chung cư đã xuống cấp, không an toàn cho người ở và những khu nhà ở không đảm bảo tiện nghi tối thiểu. Các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long phải tập trung chỉ đạo thực hiện dứt điểm chương trình xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vùng thường xuyên ngập lụt, đồng thời cần có các biện pháp chỉ đạo cụ thể nhằm tạo điều kiện để ổn định chỗ ở và bảo đảm an toàn cho nhân dân vùng thường bị bão, vùng bị sạt lở và các vùng khó khăn khác.

16. Các địa phương thành lập Quỹ phát triển nhà ở tại địa phương, tập trung các khoản thu (từ tiền bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo Nghị định số 61/CP ngày 05 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ, tiền thu từ giao đất ở, huy động tiền tiết kiệm của nhân dân với mục đích mua nhà ở và các nguồn thu khác có thể huy động được) để cho các doanh nghiệp vay xây dựng nhà ở.

17. ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố căn cứ nhu cầu và điều kiện cụ thể để tổ chức sắp xếp lại quỹ nhà ở, đất ở, củng cố và tăng cường lực lượng quản lý nhà ở và thị trường bất động sản.

III. ĐẨY MẠNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XUẤT, NHẬP KHẨU:

1. Căn cứ các mục tiêu chiến lược xuất khẩu, nhập khẩu và phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001-2005, các Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và doanh nghiệp, đặc biệt là các Tổng công ty 90 và 91, khẩn trương xây dựng chương trình xuất khẩu cho từng năm của thời kỳ 2002 - 2005. Các chương trình này phải gắn với quy hoạch nguồn hàng và quy hoạch xây dựng các khu, cụm công nghiệp chế biến phục vụ mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, phát triển mặt hàng mới mà ngành, địa phương và doanh nghiệp có lợi thế, gắn với nhu cầu của thị trường. Bộ Thương mại phối hợp với các Bộ liên quan, giúp các địa phương và doanh nghiệp triển khai thực hiện nhiệm vụ này.

2. Các tỉnh, thành phố lập Quỹ Hỗ trợ xúc tiến thương mại để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường, ưu tiên những thị trường xuất khẩu cần tập trung thâm nhập; để thưởng xuất khẩu cho các mặt hàng, đặc biệt là những mặt hàng mà địa phương có tiềm năng phát triển. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Thương mại hướng dẫn thực hiện việc lập Quỹ này trên cơ sở ngân sách địa phương, sử dụng nguồn thưởng vượt thu và nguồn tài chính hợp pháp khác để thực hiện chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại.

3. Các tỉnh, thành phố sử dụng ngân sách địa phương, kết hợp với việc huy động nguồn lực của các doanh nghiệp và có cơ chế, chính sách thoả đáng hỗ trợ cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kho tàng, bến bãi, các Trung tâm Thương mại giới thiệu sản phẩm; tư vấn thương mại, đầu tư và phổ cập thông tin thị trường trong, ngoài nước. Hoạt động của các Trung tâm này được tổ chức theo nguyên tắc tự bảo đảm kinh phí hoạt động.

4. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Ban Vật giá Chính phủ, Bộ Thương mại và một số Bộ có liên quan tiến hành kiểm tra, rà soát các chi phí dịch vụ đầu vào đối với hàng xuất khẩu (giá lưu kho, lưu bãi); các loại phí (cảng, bốc xếp, dịch vụ hàng hải, dịch vụ ngân hàng, cầu, đường bộ, dịch vụ bưu chính - viễn thông, lệ phí hải quan...), trong tháng 6 năm 2002 kiến nghị Thủ tướng Chính phủ các biện pháp giảm tới mức hợp lý những chi phí này.

5. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thương mại và Ban Vật giá Chính phủ xây dựng cơ chế bảo hiểm sản xuất một số mặt hàng nông sản, trước hết đối với các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn, trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 6 năm 2002.

6. Bộ Tài chính chủ trì cùng với Quỹ Hỗ trợ phát triển tổng kết kinh nghiệm hỗ trợ tín dụng xuất khẩu thời gian qua, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xây dựng đề án thành lập Ngân hàng xuất, nhập khẩu để hỗ trợ cho vay sản xuất hàng xuất khẩu, bán chịu, trả chậm... trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 9 năm 2002.

7. Tổng cục Hải quan tiếp tục hoàn thiện, đơn giản hoá thủ tục hải quan, tăng thêm mặt hàng xuất khẩu được miễn kiểm tra; nghiên cứu cải tiến chế độ cung cấp số liệu thông tin, đảm bảo chính xác, đúng thời hạn cho Bộ Thương mại và các Bộ liên quan phân tích, đánh giá và đề ra các giải pháp kịp thời đối với công tác xuất nhập khẩu.

8. Trong tháng 6 năm 2002, Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan sửa đổi, bổ sung các Quy chế buôn bán biên giới, bao gồm cả chợ biên giới.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, địa phương liên quan tổng kết, đánh giá việc thực hiện các cơ chế, chính sách Khu kinh tế cửa khẩu để xem xét, kiến nghị bổ sung các cơ chế, chính sách ưu đãi, đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh và phát triển kinh tế của Khu kinh tế cửa khẩu.

9. Chính phủ khuyến khích doanh nghiệp ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với nông dân. Các doanh nghiệp ký hợp đồng tiêu thụ nông sản từ đầu vụ với nông dân được ưu tiên tham gia các hợp đồng thương mại của Chính phủ, được xem xét, xử lý khó khăn về tài chính do biến động giá cả hàng nông sản khi thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản đã ký kết với nông dân. Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn để triển khai thực hiện trong quý II năm 2002.

10. Đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu quản lý theo chuyên ngành, các Bộ rà soát lại cơ chế quản lý, danh mục hàng hoá ... để có những điều chỉnh thích hợp, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc đã được quy định tại Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 04 tháng 4 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 - 2005.

11. Bổ sung mặt hàng thủ công mỹ nghệ, đồ nhựa và hàng cơ khí vào Danh mục các mặt hàng được hưởng chế độ thưởng theo kim ngạch xuất khẩu đã được quy định tại Chỉ thị số 31/2001/CT-TTg ngày 13 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2002. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Thương mại xây dựng mức thưởng theo hướng ưu tiên những mặt hàng có giá trị gia tăng cao và tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động.

Trong tháng 5 năm 2002, Bộ Tài chính công bố mức thưởng cụ thể đối với từng mặt hàng để doanh nghiệp chủ động triển khai thực hiện. Cơ chế thưởng xuất khẩu được áp dụng từ 01 tháng 01 năm 2002, kể cả đối với hàng xuất khẩu trả nợ theo cơ chế Hợp đồng thương mại.

12. Tiếp tục thực hiện cơ chế miễn thu lệ phí hạn ngạch xuất khẩu hàng hoá và lệ phí hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu đến hết tháng 12 năm 2002, nhất là các chương trình khuyếch trương mặt hàng xuất khẩu mới hoặc thâm nhập thị trường mới.

13. ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp. Khuyến khích sản xuất trong nước các nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện,... thay thế nhập khẩu. Hạn chế tới mức tối đa việc nhập khẩu hàng tiêu dùng. Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu ô tô và linh kiện xe 2 bánh gắn máy.

IV. VỀ TÀI CHÍNH, NGÂN HÀNG:

1. Cấp ủy, chính quyền các cấp tập trung chỉ đạo công tác quản lý thu ngân sách nhà nước năm 2002, trong đó tập trung chỉ đạo các lực lượng chuyên ngành phối hợp tăng cường công tác quản lý chống thất thu, chống buôn lậu, trốn thuế, nhất là đối với thu thuế xuất, nhập khẩu. Tập trung kiểm tra, đấu tranh để chấm dứt tình trạng gian khai trong khâu hoàn thuế giá trị gia tăng để chiếm đoạt tiền của ngân sách nhà nước; xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm.

2. Bộ Tài chính tiếp tục kiện toàn quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp và ban hành trong tháng 6 năm 2002 chế độ chấn chỉnh việc khấu trừ thuế giá trị gia tăng đối với hàng hoá xuất khẩu là nông sản, lâm sản, thủy sản; hướng dẫn thu thuế giá trị gia tăng đối với phân bón và thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu phù hợp với đặc thù lưu thông hai mặt hàng này; hướng dẫn cụ thể việc ưu đãi thuế trong lĩnh vực gia công hoặc sản xuất hàng xuất khẩu đối với các doanh nghiệp vệ tinh đã được nêu tại Điều 2 Quyết định số 908/2001/QĐ-TTg ngày 26 tháng 7 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ, thực hiện ngay trong tháng 5 năm 2002; nghiên cứu trình Quốc hội cho áp dụng thống nhất một mức thuế thu nhập đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước có doanh số xuất khẩu như nhau.

3. Tăng cường công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý chi tiêu ngân sách nhà nước. Thủ trưởng các đơn vị sử dụng ngân sách phải chịu trách nhiệm về những khoản chi sai chế độ, lãng phí. Cơ quan tài chính, Kho bạc nhà nước thực hiện đầy đủ nhiệm vụ kiểm soát việc quản lý sử dụng ngân sách; chịu trách nhiệm về việc thanh toán những khoản chi sai chế độ, vượt định mức quy định; tăng cường sự giám sát của các tổ chức quần chúng...

4. Các công trình, dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước và việc mua sắm công của các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp nhà nước phải ưu tiên mua sắm tài sản (bao gồm cả vật tư, thiết bị, phương tiện vận chuyển, hàng hoá) được sản xuất ở trong nước với điều kiện kỹ thuật và chất lượng tương đương hàng nhập khẩu. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính có văn bản hướng dẫn và kiểm soát việc triển khai thực hiện.

5. Triển khai thực hiện mở rộng khoán biên chế và kinh phí quản lý đối với cơ quan hành chính nhà nước. Các Bộ, địa phương tổ chức thực hiện chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu theo Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 2002 của Chính phủ.

6. Trong tháng 5 năm 2002, Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Thương mại và các Bộ liên quan nghiên cứu cải tiến chế độ chi hỗ trợ phát triển thị trường, xúc tiến thương mại trình Thủ tướng Chính phủ theo hướng dành toàn bộ nguồn ngân sách hỗ trợ phát triển thị trường và xúc tiến thương mại năm 2002 cho các chương trình trọng điểm, nhất là những chương trình khuyếch trương mặt hàng xuất khẩu mới, hoặc thâm nhập thị trường mới.

7. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ việc sửa đổi, bổ sung những vấn đề liên quan đến giá đất; việc điều tiết thu nhập qua giá đất khi đã được Nhà nước đầu tư xây dựng hạ tầng; việc thu phí, lệ phí và những chính sách tài chính liên quan đến hoạt động phát triển nhà ở nhằm tạo điều kiện khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xây dựng nhà ở. Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xem xét, sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về nhà ở, đất ở, góp phần bình ổn giá nhà ở, đất ở, giải quyết ngày càng tốt nhu cầu cải thiện chỗ ở của nhân dân theo hướng người sử dụng nhà ở được thụ hưởng cao nhất những ưu đãi của Nhà nước, nhất là cán bộ, công nhân, viên chức, người có thu nhập thấp, đặc biệt là người nghèo, người dân ở các vùng khó khăn. Phải có chế tài và biện pháp xử lý nghiêm các chủ đầu tư lợi dụng chính sách ưu đãi của Nhà nước để đầu cơ trục lợi, trình Chính phủ trong quý II năm 2002.

8. Miễn toàn bộ lãi vay ngân hàng cho các hộ nông dân ở các tỉnh Tây Nguyên vay chăm sóc vườn cà phê niên vụ 2001-2002. Ngân sách nhà nước cấp bù khoản lãi tiền vay này.

9. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các ngân hàng thương mại tiếp tục cho vay vốn để thực hiện những dự án vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước do các ngân hàng thẩm định và đang cho vay dở dang. Những dự án mới do Quỹ Hỗ trợ phát triển thẩm định thì cho vay theo đúng quy định hiện hành.

V. CÁC VẤN ĐỀ VỀ VĂN HÓA - XÃ HỘI:

1. Xoá đói, giảm nghèo và việc làm:

a) Các Bộ và địa phương tập trung chỉ đạo thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia, Chương trình 135, hướng dẫn, kiểm tra để các công trình xây dựng bằng các nguồn vốn thuộc các chương trình đúng mục tiêu, có hiệu quả, làm tốt công tác xoá đói, giảm nghèo ở các vùng còn nhiều khó khăn, chậm phát triển; triển khai có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc, các tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời hướng dẫn và kiểm tra xây dựng, sử dụng các công trình; xem xét, rà soát để đưa các xã đã đạt được mục tiêu ra khỏi Chương trình.

b) ủy ban nhân dân các cấp phải có kế hoạch, giải pháp và phân công cán bộ chỉ đạo cụ thể để giảm đói nghèo một cách bền vững, ngăn chặn tái đói nghèo; huy động các tổ chức, đoàn thể và cả cộng đồng giúp nhau xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn; chỉ đạo xây dựng và nhân rộng mô hình xoá đói, giảm nghèo có hiệu quả phù hợp với điều kiện cụ thể ở địa phương.

c) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội khẩn trương hoàn thành quy hoạch mạng lưới các trường đào tạo nghề, công bố để làm căn cứ triển khai thực hiện, có kế hoạch và biện pháp cụ thể nâng cao chất lượng đào tạo nghề; phối hợp với các Bộ liên quan trình Chính phủ ban hành Nghị định về việc làm phù hợp với nội dung sửa đổi của Bộ Luật Lao động; phối hợp với các địa phương chấn chỉnh và nâng cao chất lượng hoạt động của các Trung tâm dịch vụ việc làm.

d) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục thực hiện việc chấn chỉnh công tác xuất khẩu lao động, mở rộng thị trường, sắp xếp lại các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu lao động, đặc biệt quan tâm đến đào tạo lao động cho xuất khẩu; ban hành chế tài để xử lý nghiêm minh những vi phạm của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và vi phạm hợp đồng của người lao động trong thời gian làm việc ở nước ngoài.

đ) Các Bộ phối hợp với ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tập trung chỉ đạo triển khai các chương trình hỗ trợ việc làm, ưu tiên giải quyết việc làm cho lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, lao động bị mất việc làm ở những vùng đô thị hóa, đồng thời nghiên cứu trình Chính phủ lãi suất cho vay hợp lý đối với các dự án giải quyết việc làm từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.

2. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ:

a) Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các địa phương củng cố và phát huy kết quả xoá mù chữ và phổ cập tiểu học; triển khai vững chắc việc thực hiện phổ cập trung học cơ sở; tổ chức bồi dưỡng giáo viên, chuẩn bị sách giáo khoa, thiết bị dạy học, trường sở, huy động các nguồn kinh phí và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai rộng rãi trong toàn quốc chương trình và sách giáo khoa mới cho lớp 1 và lớp 6 năm học 2002 - 2003; đặc biệt quan tâm đầu tư và tập trung chỉ đạo các vùng sâu, vùng xa, vùng các dân tộc ít người.

b) Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các cơ quan liên quan và các tỉnh, thành phố tổ chức triển khai thực hiện giai đoạn I của Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và Quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hướng trọng tâm vào chất lượng giáo dục, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, có biện pháp cụ thể ngăn chặn, xử lý các tiêu cực trong việc dạy thêm, học thêm tràn lan, trong tuyển sinh, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy chế, tiêu cực.

c) Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung chỉ đạo thực hiện tốt đổi mới một bước việc tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp năm 2002, theo hướng bảo đảm công bằng, hiệu quả, giảm tốn kém và căng thẳng cho nhân dân.

d) Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường chủ trì cùng các Bộ liên quan và các địa phương thực hiện đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ nhằm tạo lập và phát triển thị trường khoa học và công nghệ, thực hiện xã hội hóa hoạt động khoa học và công nghệ, gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học với đào tạo và sản xuất, kinh doanh, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh của hàng hoá và nền kinh tế nước ta; đẩy mạnh công tác chống ô nhiễm và bảo vệ môi trường tại các thành phố lớn, các khu công nghiệp và các làng nghề.

3. Văn hoá, xã hội:

a) Bộ Văn hoá - Thông tin phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ đạo triển khai thực hiện phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" gắn với việc đấu tranh chống các tệ nạn xã hội; phối hợp với các Bộ liên quan và các địa phương chỉ đạo tổ chức các đợt thanh tra, kiểm tra đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống kinh doanh văn hoá phẩm và các dịch vụ văn hoá độc hại, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

b) Bộ Y tế cùng các Bộ liên quan tập trung hoàn thiện đề án đổi mới cơ chế, chính sách, chế độ viện phí và khám chữa bệnh cho người nghèo, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý II năm 2002.

c) Uỷ ban Thể dục Thể thao phối hợp các Bộ có liên quan có kế hoạch cụ thể để thực hiện tốt nhiệm vụ chuẩn bị và phục vụ cho Sea Games 22 năm 2003.

d) Bộ Tài chính phối hợp với Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ và các Bộ liên quan bổ sung, cụ thể hoá các cơ chế, chính sách xã hội hoá đối với từng lĩnh vực (chính sách ưu đãi về đất đai, vốn, tín dụng...) trình Chính phủ trong quý III năm 2002 để làm căn cứ cho các Bộ, ngành và địa phương xây dựng kế hoạch cụ thể để chỉ đạo triển khai đẩy mạnh xã hội hoá trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao; đồng thời tăng cường quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng hoạt động trong từng lĩnh vực.

đ) Các Bộ và ủy ban nhân dân các cấp phải thường xuyên kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật, các quy định về hoạt động, tài chính của các đơn vị ngoài công lập, kịp thời chấn chỉnh, xử lý nghiêm các đơn vị có sai phạm nhằm bảo đảm cho các hoạt động xã hội hoá thực hiện đúng các mục tiêu đặt ra.

4. Phòng, chống tai nạn giao thông và tệ nạn xã hội:

a) Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an phối hợp các địa phương, trước hết là các thành phố lớn kiên quyết thực hiện các biện pháp để ngăn chặn và giảm tai nạn giao thông, tăng cường kỷ cương giao thông; chấn chỉnh để nâng cao chất lượng đào tạo và cấp bằng lái xe; tại các thành phố lớn cần khẩn trương quy hoạch lại hệ thống kết cấu hạ tầng và phương tiện giao thông; xử lý nghiêm những vi phạm quy định an toàn giao thông.

b) Bộ Công an chủ trì, phối hợp cùng các Bộ liên quan chỉ đạo kiên quyết và kiên trì công tác phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội, tấn công truy quét các loại tội phạm, đặc biệt là loại tội phạm có tổ chức theo kiểu "xã hội đen" và tội phạm ma tuý, tệ nạn mại dâm ....

c) Uỷ ban nhân dân các cấp với sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Công an và các Bộ liên quan huy động sức mạnh của các tổ chức đoàn thể, của cả cộng đồng kiên quyết xoá bỏ các tụ điểm tệ nạn xã hội, buôn bán lẻ ma tuý trên từng địa bàn; đặc biệt là phải xác định rõ trách nhiệm và có cơ chế, chính sách cụ thể cho chính quyền và các lực lượng ở cơ sở, xã, phường, khu phố trực tiếp tham gia. Đối với việc phòng, chống tệ nạn ma tuý, phải triển khai đồng bộ bốn khâu: ngăn chặn nguồn cung cấp; khống chế lây lan; kiên trì chữa trị gắn với lao động, tạo việc làm và quản lý sau cai nghiện.

d) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo các địa phương khẩn trương xây dựng các trung tâm cai nghiện và chữa trị cho các đối tượng mại dâm, ma tuý theo quy định của Luật phòng, chống ma tuý, bảo đảm đưa cơ bản số đối tượng bị nghiện vào các trung tâm, thực hiện cho được phương châm ngăn chặn lây lan.

VI. Kỷ luật, kỷ cương hành chính:

Kỷ luật, kỷ cương hành chính phải được thể hiện ở việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, trong việc tổ chức thực hiện các văn bản đó, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính và công tác kiểm tra xử lý các vi phạm.

1. Kỷ luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật:

Triệt để tuân thủ nguyên tắc: Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật, Pháp lệnh phải được soạn thảo và trình cùng với dự án luật, pháp lệnh. Các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phải đủ cụ thể để thi hành được ngay sau khi có hiệu lực. Hạn chế tối đa việc ban hành thông tư. Nếu xét thấy cần thiết có thông tư hướng dẫn thì phải quy định rõ trong văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về vấn đề cần hướng dẫn và nội dung đó phải được chuẩn bị cùng với dự thảo văn bản trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Nếu thiếu thì coi như chưa đúng thủ tục, Văn phòng Chính phủ được quyền trả lại văn bản đó và yêu cầu cơ quan trình phải bổ sung.

Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố chấp hành nghiêm việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của mình, chấm dứt trình trạng văn bản quy phạm pháp luật của Bộ, cơ quan ngang Bộ không phù hợp với Luật của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Các văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố phải do Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố ký. Chấn chỉnh và tăng cường công tác kiểm tra, rà soát việc ban hành các loại văn bản của cơ quan trực thuộc, của cấp dưới thuộc phạm vi quản lý của mình. Cơ quan ban hành văn bản không phù hợp với Luật của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, phải ra văn bản sửa đổi hoặc hủy bỏ nội dung không phù hợp, đồng thời kiên quyết xử lý theo đúng thẩm quyền những người ký, ban hành các văn bản sai trái.

2. Kỷ luật thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật:

Khi nhận được các văn bản của các cơ quan hành chính cấp trên, Thủ trưởng cơ quan hành chính cấp dưới phải có kế hoạch tổ chức thực hiện, phân công rõ ràng nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn cho từng đơn vị chuyên môn, từng công chức trong việc tổ chức triển khai thực hiện và thông báo công khai cho các tổ chức và công dân biết để liên hệ công tác và giám sát hoạt động của cơ quan công chức đó. Trong quá trình thực hiện, cấp dưới có quyền kiến nghị, nêu những khó khăn, vướng mắc với cấp trên và trong khi chờ giải quyết, vẫn phải thực hiện đầy đủ và đúng yêu cầu công việc được giao, không được phát ngôn hoặc thực hiện trái với quy định và sự chỉ đạo của cấp trên.

Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước phải liên đới chịu trách nhiệm về việc để xảy ra vi phạm pháp luật nghiêm trọng của cán bộ, công chức cấp dưới khi thi hành công vụ hoặc để cho tình trạng vi phạm trật tự, kỷ cương kéo dài trong cơ quan, đơn vị, làm ảnh hưởng tiêu cực và gây bất bình trong dư luận.

Trong quan hệ phối hợp, triệt để tuân thủ nguyên tắc: một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện, các cơ quan liên quan có trách nhiệm phối hợp. Cơ quan chủ trì đề án phải thể hiện đầy đủ và rõ ràng quan điểm của mình về tất cả các vấn đề của đề án khi gửi lấy ý kiến tham gia của các cơ quan có liên quan và chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc chuẩn bị đề án cả về nội dung và thời gian theo quy định.

Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về việc đăng ký và chuẩn bị các đề án đã được giao trong Chương trình công tác của Chính phủ (hàng năm, hàng quý và hàng tháng), coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của việc chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương, trước hết trong hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước ở Trung ương.

3. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính và công tác kiểm tra, xử lý vi phạm:

Người đứng đầu cơ quan hành chính phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước dân, trước cơ quan hành chính cấp trên về trật tự kỷ cương, kỷ luật hành chính trong đơn vị mình phụ trách. Tăng cường công tác đôn đốc, kiểm tra và thực hiện việc chỉ đạo sâu sát của thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên đối với cấp dưới, của lãnh đạo cơ quan đối với cán bộ, công chức thuộc quyền trong việc thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ công tác được giao. Lãnh đạo Bộ, chính quyền địa phương phải kiên quyết giảm bớt và cải tiến nội dung các cuộc họp, dành nhiều thời gian và công sức xuống cơ sở, trực tiếp kiểm tra, nắm tình hình và hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới. Trước mắt, tập trung vào một số lĩnh vực đang có nhiều bức xúc là giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp; quản lý nhà đất; đầu tư xây dựng cơ bản.

Thủ tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo giải quyết một số vụ việc đang nổi cộm xảy ra ở một số cơ quan Trung ương, địa phương liên quan đến trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước.

Theo thẩm quyền, Thủ tướng Chính phủ sẽ áp dụng hình thức kỷ luật nghiêm khắc đối với Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố; trình Quốc hội, Chủ tịch nước áp dụng hình thức xử lý thích đáng đối với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ khi để xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật, kỷ luật hành chính nghiêm trọng hoặc kéo dài trong ngành mình, địa phương mình, gây bất bình trong dư luận hoặc cố tình không chấp hành ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố phải trực tiếp chỉ đạo giải quyết dứt điểm những vụ nổi cộm về vi phạm pháp luật, kỷ luật hành chính, xâm phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của nhân dân, của doanh nghiệp, coi thường kỷ cương, phép nước. Khi đã có kết luận về sai phạm thì phải có ngay hình thức xử lý thích đáng và công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.

4. Khẩn trương triển khai một số công việc cấp thiết nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế mới, bảo đảm các biện pháp tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước:

a) Bộ Tư pháp:

+ Trình Thủ tướng Chính phủ trước tháng 9 năm 2002 kết quả tổng rà soát văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng kế hoạch sửa đổi, bổ sung, hệ thống hoá, pháp điển hoá các văn bản quy phạm pháp luật, khắc phục những sơ hở, mâu thuẫn dễ bị lợi dụng hoặc vận dụng tuỳ tiện, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.

+ Thực hiện đầy đủ chế độ kiểm tra việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân,ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố; kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xử lý theo thẩm quyền những văn bản ban hành trái với Hiến pháp, luật và văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên.

+ Phối hợp với Toà án nhân dân tối cao xây dựng Đề án kiện toàn, nâng cao vai trò và năng lực của Toà hành chính trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính. Công việc này phải xong trước tháng 10 năm 2002.

b) Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ:

+ Nghiên cứu, sửa đổi các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ theo quy định của Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 và Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, để trình Chính phủ ngay sau khi Quốc hội quyết định cơ cấu tổ chức của Chính phủ trong nhiệm kỳ tới, nhằm khắc phục cơ bản tình trạng chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ, tạo bước chuyển biến mới về phân công, phân cấp và phối hợp trong bộ máy hành chính nhà nước.

+ Phối hợp với Thanh tra Nhà nước rà soát các quy định của pháp luật liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ nhằm hoàn thiện chế độ công vụ; báo cáo và trình Thủ tướng Chính phủ trước ngày 30 tháng 6 năm 2002 kết quả rà soát và kiến nghị sửa đổi, bổ sung những nội dung chưa được quy định hoặc quy định chưa hợp lý.

+ Trình Chính phủ xem xét, quyết định các văn bản cụ thể hóa các quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức, Pháp lệnh chống tham nhũng và các văn bản quy phạm pháp luật khác về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ, nhất là về trách nhiệm liên đới của cán bộ, công chức là người đứng đầu cơ quan, đơn vị đối với việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức cấp dưới, trình Chính phủ trước tháng 10 năm 2002.

c) Văn phòng Chính phủ: giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo dõi việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính quyền tỉnh, thành phố đúng thẩm quyền, đúng quy định của Chính phủ. Kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và các Quyết định hành chính của Thủ tướng Chính phủ ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cấp chính quyền địa phương. Theo dõi và kiểm tra việc thực hiện Chương trình công tác của Chính phủ và của từng Bộ, ngành. Báo cáo kịp thời với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về những vi phạm kỷ luật hành chính ở các Bộ, địa phương.

d) Thanh tra Nhà nước xây dựng đề án đổi mới và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhà nước của hệ thống bộ máy hành chính nhà nước cả về thể chế, tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức trình Chính phủ xem xét, quyết định vào tháng 5 năm 2002.

đ) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, căn cứ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền theo quy định, tiến hành ngay việc kiện toàn bộ máy, chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra nhà nước của Bộ, ngành mình; lựa chọn cán bộ, công chức có phẩm chất tốt, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ vào làm công tác thanh tra để công tác này thực sự là công cụ giúp mình phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh những vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức.

5. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp phải trực tiếp chỉ đạo quán triệt và lập kế hoạch tổ chức thực hiện việc chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính. Trước mắt, cần lựa chọn một số vấn đề, một số lĩnh vực thật sự bức xúc hoặc một số cơ quan, đơn vị có biểu hiện sa sút về kỷ luật, kỷ cương hành chính để có kế hoạch chỉ đạo tập trung xử lý dứt kiểm để rút kinh nghiệm cho việc triển khai tiếp theo; hàng tháng tổ chức kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện việc này ở ngành, địa phương mình và báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.

Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Nghị quyết này.

 

Phan Văn Khải

(Đã ký)

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 05/2002/NQ-CP

Loại văn bảnNghị quyết
Số hiệu05/2002/NQ-CP
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành24/04/2002
Ngày hiệu lực24/04/2002
Ngày công báo05/06/2002
Số công báoSố 25
Lĩnh vựcBộ máy hành chính
Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
Cập nhật18 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Download Văn bản pháp luật 05/2002/NQ-CP

Lược đồ Nghị quyết 05/2002/NQ-CP giải pháp để triển khai thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2002


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản sửa đổi, bổ sung

      Văn bản bị đính chính

        Văn bản được hướng dẫn

          Văn bản đính chính

            Văn bản bị thay thế

              Văn bản hiện thời

              Nghị quyết 05/2002/NQ-CP giải pháp để triển khai thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2002
              Loại văn bảnNghị quyết
              Số hiệu05/2002/NQ-CP
              Cơ quan ban hànhChính phủ
              Người kýPhan Văn Khải
              Ngày ban hành24/04/2002
              Ngày hiệu lực24/04/2002
              Ngày công báo05/06/2002
              Số công báoSố 25
              Lĩnh vựcBộ máy hành chính
              Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
              Cập nhật18 năm trước

              Văn bản thay thế

                Văn bản được hợp nhất

                  Văn bản được căn cứ

                    Văn bản hợp nhất

                      Văn bản gốc Nghị quyết 05/2002/NQ-CP giải pháp để triển khai thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2002

                      Lịch sử hiệu lực Nghị quyết 05/2002/NQ-CP giải pháp để triển khai thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2002

                      • 24/04/2002

                        Văn bản được ban hành

                        Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                      • 05/06/2002

                        Văn bản được đăng công báo

                        Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                      • 24/04/2002

                        Văn bản có hiệu lực

                        Trạng thái: Có hiệu lực