Chỉ thị 343-TTg

Chỉ thị 343-TTg năm 1978 về xây dựng kế hoạch Nhà nước năm 1979 do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Nội dung toàn văn Chỉ thị 343-TTg xây dựng kế hoạch Nhà nước năm 1979


THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 343-TTg

Hà Nội, ngày 24 tháng 06 năm 1978 

 

CHỈ THỊ

VỀ VIỆC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1979

Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 212-TTg ngày 15-5-1977 về việc xây dựng kế hoạch Nhà nước trong 5 năm (1976-1980). Trong việc xây dựng kế hoạch Nhà nước năm 1979, các ngành và địa phương phải chấp hành nghiêm chỉnh các tư tưởng chỉ đạo, nội dung và phương pháp lập kế hoạch theo Chỉ thị trên.

Để việc xây dựng kế hoạch Nhà nước năm 1979 phù hợp với tình hình mới, Thủ tướng Chính phủ lưu ý các ngành và địa phương một số điểm sau đây.

I. TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1979

1. Phải ra sức phấn đấu theo phương hướng và mục tiêu của kế hoạch 5 năm (1976 – 1980) do Đại học IV vạch ra và được cụ thể hóa thêm trong các nghị quyết hội nghị trung ương Đảng lần thứ hai và thứ ba, đồng thời phải tính đến những yêu cầu do tình hình mới đặt ra. Kế hoạch năm 1979 vừa phải thực hiện một phần quan trọng các mục tiêu của kế hoạch 5 năm, vừa phải tăng cường khả năng quốc phòng theo yêu cầu của tình hình mới và chuẩn bị tốt cho năm 1980. Nhiệm vụ xây dựng kinh tế phải kết hợp chặt chẽ với yêu cầu tăng cường lực lượng quốc phòng, củng cố vùng biên giới, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xấu có thể xảy ra. Trong các nhiệm vụ kinh tế, cần nắm vững việc đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và tăng nhanh xuất khẩu, là những nhiệm vụ trọng tâm và hết sức cấp bách của kế hoạch Nhà nước năm 1979, cần phải tập trung sức để thực hiện. Tình hình mới càng đòi hỏi phải giải quyết tốt hơn vấn đề đời sống và xuất khẩu.

2. Phải ra sức khai thác, tận dụng và phát huy tiềm lực của nền kinh tế, đặc biệt là phát huy thế mạnh về sức lao động, đất, rừng, biển và sử dụng tốt thiết bị, vật tư hiện có trong nước để đẩy mạnh sản xuất, xây dựng, bảo đảm đời sống và tăng cường khả năng quốc phòng.

Mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi đơn vị cơ sở phải nắm đầy đủ và cụ thể mọi khả năng của mình, đánh giá mức độ và hiệu quả sử dụng hiện nay, từ đó mà đề ra kế hoạch biện pháp khai thác, sử dụng trong thời gian tới. Khi nêu ra yêu cầu xây dựng thêm, nhập khẩu thêm, trang bị thêm cái mới, phải xem xét kỹ lưỡng khả năng hiện có, kiên quyết đấu tranh với tình trạng đòi hỏi cái mới trong khi cái đã có lại để lãng phí, sử dụng ở mức rất thấp.

3. Phải hết sức chú trọng hiệu quả kinh tế trong mọi hoạt động của các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở. Kế hoạch phải được tính toán chặt chẽ theo các tiêu chuẩn, định mức gắn các chỉ tiêu số lượng với chỉ tiêu chất lượng như năng suất lao động, giá thành, hiệu suất sử dụng thiết bị, hiệu quả và thời gian hoàn thành công trình xây dựng, thời gian thu hồi vốn đầu tư, chất lượng sản phẩm, các chỉ tiêu về thu hồi và sử dụng phế liệu, phế phẩm…

4. Kế hoạch phải thể hiện tinh thần cách mạng tiến công đồng thời phải hiện thực. Các ngành, các cấp, đặc biệt là các đơn vị cơ sở phải đề cao quyền làm chủ tập thể của quần chúng, đẩy mạnh công tác động viên chính trị trong tình hình mới, phát huy cao độ tinh thần tự lực tự cường, thúc đẩy công tác nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật trong các ngành kinh tế để tạo nên những bước tiến mạnh mẽ về tăng năng suất lao động, tìm vật tư trong nước thay thế nguyên liệu nhập khẩu, làm ra nhiều mặt hàng mới phù hợp với yêu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân, đồng thời nhanh chóng nâng cao năng lực xuất khẩu, qua đó mà nhập khẩu thêm những vật tư thiết bị trong nước chưa sản xuất được.

Mặt khác, kế hoạch phải hiện thực, phải tính toán chặt chẽ các điều kiện vật chất, bảo đảm cân đối đồng bộ, bảo đảm phân công và phối hợp mọi tổ chức có liên quan đến việc sản xuất ra một sản phẩm nhất định; cố gắng đến mức cao nhất phát triển nguồn nguyên liệu trong nước, đồng thời chủ động hạn chế những nhu cầu mà nền kinh tế chưa có khả năng đáp ứng, chủ động chuyển hướng sản xuất khi biết trước không bảo đảm nổi những vật tư cần thiết, tránh tình trạng bị động và thụ động ngồi chờ vật tư.

5. Việc xây dựng kế hoạch phải cân đối chặt chẽ và gắn chặt các khâu sản xuất với lưu thông, phân phối và tiêu dùng, đặc biệt coi trọng chỉ tiêu thu mua, giao nộp sản phẩm cho Nhà nước, coi đó là pháp lệnh của Nhà nước, là một tiêu chuẩn của phong trào thi đua.

6. Phải thực hiện nghiêm chỉnh việc xây dựng kế hoạch từ dưới lên, phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng, nâng cao trách nhiệm và quyền chủ động của các ngành, các địa phương và cơ sở trong việc xây dựng kế hoạch.

II. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1979

Nội dung và phương pháp xây dựng kế hoạch của từng ngành, của các tỉnh, thành phố và đơn vị cơ sở đã nêu rõ trong Chỉ thị số 212-TTg ngày 15-5-1977. Trong việc xây dựng và tổng hợp kế hoạch, một mặt phải thể hiện đầy đủ các yêu cầu đó, mặt khác phải dồn sức cả nước làm tốt các nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch Nhà nước năm 1979 là đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, ra sức phát triển hàng tiêu dùng, tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu và tăng cường khả năng quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội, bảo vệ đất nước trong tình hình mới.

Từ nay đến khi tổng hợp kế hoạch, cần khẩn trương triển khai các công tác về chấn chỉnh, cải tiến công tác chỉ đạo, quản lý kinh tế và đổi mới công tác kế hoạch hóa theo tinh thần của nghị quyết hội nghị lần thứ ba của trung ương Đảng và nghị quyết số 37-CP của Hội đồng Chính phủ nhằm thúc đẩy việc thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1978, xây dựng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1979.

1. Cải tiến công tác kế hoạch hóa

Giải quyết vấn đề kết hợp kế hoạch hóa theo ngành với kế hoạch hóa theo địa phương và vùng lãnh thổ. Năm nay sẽ không xét duyệt kế hoạch của tỉnh, thành phố trước khi ty, sở bảo vệ kế hoạch với Bộ chủ quản, nhất là về đầu tư xây dựng cơ bản và vật tư do trung ương cấp cho địa phương. Mặt khác, các xí nghiệp trung ương phải báo cáo kế hoạch của mình cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố tổng hợp thành kế hoạch của địa phương có kèm theo những yêu cầu về cung ứng vật tư, điều phối và tuyển dụng lao động, xây dựng kết cấu hạ tầng, phục vụ đời sống, v.v… do địa phương đảm nhận.

Sửa đổi và ban hành hệ thống chỉ tiêu, biểu mẫu nhằm thể hiện yêu cầu đổi mới công tác kế hoạch, kết hợp kế hoạch hóa theo ngành với kế hoạch hóa theo địa phương và vùng lãnh thổ, thể hiện yêu cầu kế hoạch hóa và quản lý kinh tế ở hai miền – Bắc hiện nay.

Trên cơ sở soát xét lại các tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật, cần xây dựng tốt các chỉ tiêu về mặt chất lượng như năng suất lao động, giảm tiêu hao vật tư kỹ thuật, tăng hiệu suất sử dụng thiết bị máy móc, giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm…

Cải tiến và kiện toàn công tác kế hoạch ở các cấp. Tăng cường công tác kế hoạch cấp huyện, tổ chức tốt công tác xây dựng kế hoạch từ cơ sở lên.

2. Những vấn đề cần tập trung nghiên cứu để cải tiến công tác chỉ đạo và quản lý kinh tế

Về nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp chủ trì cùng với các ngành và các địa phương có liên quan nghiên cứu các biện pháp cụ thể chỉ đạo thâm canh trên toàn bộ diện tích lúa hiện có, khả năng mở rộng diện tích trồng các cây lương thực; đặc biệt phải có phương án cụ thể chỉ đạo vùng lúa thâm canh cao sản đạt 8 – 10 tấn/ha ở vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long; các biện pháp đẩy mạnh sản xuất màu, tổ chức chế biến, thu mua và phân phối màu; các vấn đề về tổ chức sản xuất, thu mua bảo đảm nguyên liệu nông sản cho các xí nghiệp công nghiệp và nông sản cho xuất khẩu.

Về công nghiệp, Bộ Công nghiệp nhẹ chủ trì cùng với Liên hiệp xã trung ương và các ngành, các địa phương có liên quan nghiên cứu các vấn đề về đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, đặc biệt là về tổ chức chỉ đạo và quản lý đối với khu vực tiểu thủ công nghiệp (bao gồm việc khai thác nguồn nguyên liệu trong nước, tận dụng phế liệu phế phẩm, tổ chức quản lý và chỉ đạo, các vấn đề chính sách khuyến khích sản xuất hàng tiêu dùng…). Bộ Công nghiệp nhẹ cùng với Bộ Nội thương, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và các ngành có liên quan hoàn thành sớm việc lập danh mục chi tiết sản phẩm hàng công nghiệp tiêu dùng, không bỏ sót từ những cái nhỏ, cùng với các ngành và các địa phương bàn việc phân công, tổ chức sản xuất và bảo đảm cung cấp cho nhân dân, không để thiếu những cái không đáng thiếu.

Bộ Cơ khí và luyện kim chủ trì phối hợp với các ngành xác định cụ thể nhu cầu từng loại phụ tùng (ô tô, máy kéo, máy đi-ê-den, máy móc công nghiệp, v.v…), khả năng sản xuất, tổ chức phân công sản xuất, nhằm đáp ứng yêu cầu của các ngành và giảm dần nhập khẩu. Xác định nhu cầu và tổ chức sản xuất các loại công cụ, máy móc đơn giản phục vụ chế biến màu, nghiên cứu tự sản xuất các loại máy móc thiết bị phục vụ sản xuất và xây dựng của các ngành.

Bộ Điện và than cùng các ngành, các địa phương xác định nhu cầu tiêu dùng điện của từng ngành và từng vùng lãnh thổ, có biện pháp bổ sung nguồn điện, thực hành các chế độ quản lý và tiết kiệm điện.

Về giao thông vận tải, Bộ Giao thông vận tải chủ trì cùng với các ngành có liên quan tổ chức thực hiện tốt các biện pháp, nhằm tăng nhanh khả năng bốc dỡ, vận chuyển hàng hóa nhập khẩu ở khu vực Hải Phòng; vận chuyển gỗ từ miền Nam ra Bắc, vận chuyển apatít, đưa cá từ một số tỉnh miền Nam ra Bắc…

Về xuất khẩu, Bộ Ngoại thương chủ trì cùng các ngành và địa phương tổ chức các nhóm nghiên cứu các chuyên đề về tổ chức xuất khẩu đối với từng mặt hàng chủ yếu về nông sản, hải sản, lâm sản…; chú ý các biện pháp cụ thể về quy hoạch, tổ chức sản xuất, cung cấp nguyên liệu, cung cấp lương thực, thu mua, chế biến, trang bị để nâng cao năng lực sản xuất, vận chuyển hàng xuất khẩu. Ngành ngoại thương cần có các nhóm nắm thị trường xuất khẩu ngoài nước.

Về vật tư, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước trình Chính phủ ban hành bảng phân công lập, duyệt và cung ứng các loại vật tư.

Về lao động, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Lao động và các Bộ có liên quan cùng với các địa phương nghiên cứu gấp việc điều chỉnh kế hoạch phân bổ lao động theo yêu cầu của tình hình mới, đề xuất các biện pháp bảo đảm cho việc điều lao động lên các vùng biên giới và bố trí lao động thay thế người Hoa rút đi.

Về giáo dục, đào tạo, Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp chủ trì có sự tham gia của các Bộ và địa phương nghiên cứu phương hướng và biện pháp hoàn chỉnh mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp để đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ chuyên môn cho các ngành và theo vùng lãnh thổ.

3. Về chính sách. Trên cơ sở quán triệt các nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch Nhà nước năm 1979, cần soát xét, nghiên cứu, bổ sung hoặc sửa đổi các chính sách, chế độ cho phù hợp với yêu cầu mới. Trước mắt, tập trung vào các chính sách sau đây:

Bộ Nông nghiệp chủ trì xây dựng và trình Chính phủ duyệt các chính sách, chế độ về xây dựng vùng kinh tế mới, khai thác tốt đất đai, bảo vệ đất, chống xói mòn, ổn định nhanh sản xuất và đời sống nhân dân ở các vùng kinh tế mới, nghiên cứu các chính sách quản lý nông trường quốc doanh trung ương và địa phương.

Bộ Lâm nghiêp chủ trì nghiên cứu các chính sách nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư trồng rừng, tận dụng gỗ cành ngọn phục vụ cho các nhu cầu.

Ủy ban Kế hoạch Nhà nước chủ trì tiếp tục hoàn chỉnh để ban hành sớm quy định về mức hạn ngạch và biện pháp quản lý các công trình dưới hạn ngạch.

Ngân hàng Nhà nước chủ trì tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh để sớm ban hành chế độ tín dụng đầu tư.

Bộ Lao động nghiên cứu chế độ huy động lao động nghĩa vụ hợp lý để thay thế cho chế độ đang thi hành.

Bộ Vật tư chủ trì xây dựng chế độ phân phối, sử dụng xăng dầu theo tinh thần tiết kiệm triệt để.

Sau khi tiền tệ đã thống nhất, cần sớm thống nhất các chế độ quản lý kinh tế, tài chính, chính sách giá đối với một số loại tư liệu sản xuất và tiêu dùng… Ủy ban Vật giá Nhà nước nghiên cứu điều chỉnh giá một số mặt hàng tiêu dùng, vừa nhằm hướng dẫn tiêu dùng, vừa góp phần cân đối lực lượng hàng hóa, sửa đổi giá một số hàng xuất khẩu; kết hợp với việc nghiên cứu cải tiến tiền lương, cần nghiên cứu điều chỉnh giá bán lẻ một số hàng nhằm giảm mức bù lỗ của ngân sách Nhà nước.

Bộ Lương thực và thực phẩm chủ trì nghiên cứu sửa đổi bổ sung chính sách thu mua huy động nông sản, bao gồm cả chính sách thuế nông nghiệp, bảo đảm vững chắc cho việc thực hiện kế hoạch huy động lương thực thừa và nông sản khác trong nông dân.

III. TRÌNH TỰ, TIẾN ĐỘ LẬP KẾ HOẠCH, BÁO CÁO VÀ GIAO KẾ HOẠCH

Cuối tháng 6 năm 1978, các Bộ, Tổng cục, các tỉnh, thành phố phải giao xong sổ kiểm tra kế hoạch cho các đơn vị cơ sở trực thuộc và các huyện. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước phải kịp thời hướng dẫn thêm về một số chỉ tiêu cần soát xét lại trong sổ kiểm tra kế hoạch đã giao cho phù hợp với tình hình mới, đặc biệt là chỉ tiêu điều động và phân bổ lao động, phân phối vật tư. Trong thời gian này, các Bộ, Tổng cục, các tỉnh, thành phố thông báo cho nhau về những chỉ tiêu có liên quan để đáp ứng yêu cầu kết hợp kế hoạch hóa theo ngành với kế hoạch hóa theo địa phương và vùng lãnh thổ; phối hợp chỉ đạo các đơn vị cơ sở triển khai ký kết hợp đồng kinh tế để làm căn cứ xác định các chỉ tiêu kế hoạch.

Tháng 7 và đầu tháng 8-1978 các huyện và các đơn vị cơ sở tổ chức việc xây dựng kế hoạch. Trong thời gian này các Bộ, Tổng cục, tỉnh, thành phố xuống giúp các huyện và cơ sở xây dựng kế hoạch và phối hợp tổ chức nghiên cứu các chuyên đề nêu ở mục 2 và 3. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước chủ trì tổ chức một số tổ công tác, có cán bộ của các ngành tham gia để đi nghiên cứu, hướng dẫn việc xây dựng kế hoạch ở một số tỉnh, huyện, trước hết là các tỉnh, huyện vùng biên giới.

Trong tháng 8-1978, các đơn vị trực thuộc, các ty, sở, huyện bảo vệ kế hoạch với Bộ, Tổng cục, tỉnh, thành phố.

Tháng 9-1978, các Bộ, Tổng cục, tỉnh, thành phố tổng hợp, cân đối kế hoạch của ngành và địa phương, thông qua Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố và báo cáo kế hoạch lên Hội đồng Chính phủ, đồng thời gửi Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Cũng trong thời gian này Ủy ban Kế hoạch Nhà nước làm việc về kế hoạch của ngành và kế hoạch của địa phương với các Bộ, Tổng cục, tỉnh, thành phố.

Tháng 10-1978, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước tổng hợp kế hoạch kinh tế quốc dân và tháng 11-1978 trình dự án kế hoạch với các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

Đầu tháng 12-1978, Hội đồng Chính phủ giao kế hoạch chính thức cho các Bộ, Tổng cục, tỉnh, thành phố. Cuối tháng 12-1978 các Bộ, Tổng cục, tỉnh, thành phố giao xong kế hoạch chính thức cho các huyện và các đơn vị cơ sở (kèm theo kế hoạch quý I-1979, kế hoạch thi công các công trình trọng điểm…), đồng thời chỉ đạo ngay việc điều chỉnh, bổ sung các hợp đồng đã ký kết cho đúng với chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước.

Các đơn vị cơ sở, khi nhận được kế hoạch chính thức của cấp trên giao, cần tiến hành việc ký kết hợp đồng tập thể giữa giám đốc và công đoàn, phát động phong trào đồng khởi thi đua xã hội chủ nghĩa ngay từ ngày đầu, tháng đầu để phấn đấu hoàn thành toàn diện và vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước.

 

 

KT. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG




Lê Thanh Nghị

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 343-TTg

Loại văn bảnChỉ thị
Số hiệu343-TTg
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành24/06/1978
Ngày hiệu lực24/06/1978
Ngày công báo30/06/1978
Số công báoSố 4
Lĩnh vựcBộ máy hành chính
Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
Cập nhật17 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Lược đồ Chỉ thị 343-TTg xây dựng kế hoạch Nhà nước năm 1979


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản bị đính chính

        Văn bản được hướng dẫn

          Văn bản đính chính

            Văn bản bị thay thế

              Văn bản hiện thời

              Chỉ thị 343-TTg xây dựng kế hoạch Nhà nước năm 1979
              Loại văn bảnChỉ thị
              Số hiệu343-TTg
              Cơ quan ban hànhThủ tướng Chính phủ
              Người kýLê Thanh Nghị
              Ngày ban hành24/06/1978
              Ngày hiệu lực24/06/1978
              Ngày công báo30/06/1978
              Số công báoSố 4
              Lĩnh vựcBộ máy hành chính
              Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
              Cập nhật17 năm trước

              Văn bản thay thế

                Văn bản hướng dẫn

                  Văn bản được hợp nhất

                    Văn bản được căn cứ

                      Văn bản hợp nhất

                        Văn bản gốc Chỉ thị 343-TTg xây dựng kế hoạch Nhà nước năm 1979

                        Lịch sử hiệu lực Chỉ thị 343-TTg xây dựng kế hoạch Nhà nước năm 1979