Chỉ thị 69/TATC

Chỉ thị 69/TATC năm 1979 về giải quyết vấn đề nhà, đảm bảo chỗ ở cho các đương sự sau khi ly hôn do Toà án nhân dân tối cao ban hành

Nội dung toàn văn Chỉ thị 69/TATC giải quyết vấn đề nhà chỗ ở đương sự sau khi ly hôn


TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 69/TATC

Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 1979

 

CHỈ THỊ

VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ NHÀ, ĐẢM BẢO CHỖ Ở CHO CÁC ĐƯƠNG SỰ SAU KHI LY HÔN

Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn đã được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình. Toà án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn thêm trong Thông tư số 690/DS ngày 29-4-1960 và tiếp đó, qua thực tiễn xét xử nhiều vấn đề cụ thể cũng đã được giải quyết trong các hội nghị tổng kết công tác hàng năm của ngành Toà án. Nhiều địa phương trong khi hoà giải, xét xử đã giải quyết tốt vấn đề tài sản, nhất là nhà ở, vừa bảo đảm chính sách, pháp luật, vừa quan tâm đúng mức quyền lợi của người vợ và con cái, phù hợp với thực tế.

Tuy nhiên, trong khi vận dụng cũng còn nhiều bản án xét xử chưa thoả đáng, chưa bảo đảm nguyên tắc bảo vệ quyền lợi phụ nữ và con cái. Có những trường hợp người vợ đã lớn tuổi suốt cả thời gian dài đã góp nhiều công sức vào việc xây dựng, duy trì sửa chữa nhà cửa, nhưng đến khi ly hôn chỉ được nhận 1 số tiền đền bù công sức không đủ tạo lập được chỗ ở mới. Do đó, có số chị em đông con nhỏ phải ra ở nhờ nhà kho của Hợp tác xã và trường học, thậm chí có chị bồng con ở quán chợ... Cũng có trường hợp bên cha mẹ chồng giúp cho con làm nhà ở riêng, lúc bình thường không có vấn đề gì nhưng khi con ly hôn, cha mẹ chồng lại coi là nhà của mình để đòi lại, người con dâu phải ra ở chỗ khác. Có trường hợp hai vợ chồng có nhà riêng nhưng người chồng thoát ly công tác, người vợ làm nông nghiệp ở địa phương và nuôi con chung nhưng không được chia nhà với lý do nhà đó làm trên đất nhà chồng; xung quanh là họ hàng nhà chồng. Ở các tỉnh miền Nam (trừ các tỉnh Tây Nguyên), hầu hết các vụ ly hôn, người phụ nữ đều trở về nhà cha mẹ đẻ, hoặc tìm chỗ khác nên cũng có 1 số chị em thực tế có khó khăn về chỗ ở, nhất là khi chị em phải nuôi con chung.

Do một số vụ giải quyết chỗ ở cho các đương sự không thoả đáng nên một số bản án kéo dài không thi hành được. Có vụ dẫn đến hai bên đương sự hoặc gia đình họ hàng hai bên đương sự đánh cãi nhau gây thương tích, ảnh hưởng đến trật tự trị an chung và tổn thương tình đoàn kết trong nhân dân. Nguyên nhân của tình hình đó, một mặt do chưa nhận thức đúng đắn về vai trò vị trí người phụ nữ trong gia đình, quyền lợi của chị em đối với tài sản chung của vợ chồng và trách nhiệm đối với con cái, mặt khác do chưa quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề giải quyết chỗ ở cho nhân dân trong tình hình khó khăn chung về nhà cửa hiện nay. Có một số Toà án chưa cố gắng đi sâu điều tra thực tế, chưa phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể địa phương, đã ra những quyết định không hợp tình hợp lý gây thiệt hại quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.

Xuất phát từ tình hình nói trên, căn cứ vào các nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình và thực tiễn xét xử, Toà án nhân dân tối cao đề ra một số điểm chính về phương hướng giải quyết vấn đề chia nhà, bảo đảm chỗ ở cho các đương sự trong các vụ ly hôn như sau:

Vấn đề chia nhà nằm trong toàn bộ vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn đã được quy định ở Điều 15 và Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình. Nhưng nhà là một nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, là tư liệu sinh hoạt quan trọng nhất trong tài sản chung của vợ chồng. Nguyên tắc chung là dù đã ly hôn, mỗi người đều có quyền có chỗ ở, vì vậy, giải quyết nhà phải nhằm tạo điều kiện mỗi bên có chỗ ở, ổn định cuộc sống nhất là đối với các con cái. Đây là vấn đề khó khăn và phức tạp, không những phải nắm vững đường lối chính sách mà còn vận dụng thích hợp vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi vụ kiện.

Quá trình giải quyết, Toà án nhân dân các cấp cần hết sức chú ý điều tra nghiên cứu để xác định nguồn gốc xây dựng, quá trình quản lý sử dụng, tu sửa nhà đó. Xác định công sức đóng góp của mỗi bên và tình trạng, hoàn cảnh cụ thể của mỗi bên khi ly hôn. Khi chia nhà, phải bảo đảm quyền lợi chính đáng của cả hai bên đương sự, đồng thời rất quan tâm đến quyền lợi người vợ và con cái vì thông thường họ có nhiều khó khăn hơn. Khi vận dụng, cần xem xét toàn diện các chính sách như chính sách đối với đất ở nông thôn cũng như ở thành thị, chính sách thống nhất quản lý nhà ở thành thị, chính sách quản lý hộ khẩu và chính sách đối với bộ đội, thương binh, gia đình liệt sĩ.

Khi giải quyết, cần hết sức chú ý đến tình hình thực tế của việc sử dụng, tránh những quyết định đi đến phá dỡ nhà. Phải lưu ý đến tình hình khó khăn trong việc tìm chỗ ở mới nhất là đối với phụ nữ và con cái, bất kỳ trong trường hợp nào cũng không được để vợ con ra khỏi nhà khi họ thực sự chưa có chỗ ở một cách thoả đáng.

Khi vợ chồng đã ly hôn mà còn phải ở chung một nhà là bất đắc dĩ. Vì vậy, nên quan tâm tạo điều kiện để mỗi bên có chỗ ở riêng. Trong những trường hợp không có khả năng nào giải quyết tốt hơn, thì vẫn phải để ở chung một nhà, sau đó, qua thực tế cuộc sống họ sẽ tự sắp xếp bằng cách này hay cách khác tiện lợi cho họ.

Hiện nay nhu cầu về nhà ở rất lớn nhất là ở thành phố và thị xã, khả năng của ta lại rất hạn chế. Cho nên giải quyết vấn đề nhà ở sau khi ly hôn không những phải có quan điểm đúng đắn mà phải dựa vào thực tế, dựa vào sự giúp đỡ của các cơ quan, đoàn thể, hợp tác xã, đồng thời phải rất chú ý công tác hoà giải, giáo dục để các đương sự nhận rõ trách nhiệm của mình, thấy hết tình hình khó khăn phức tạp để họ có thái độ đúng đắn cùng nhau bàn bạc tìm cách giải quyết thoả đáng. Cán bộ Toà án không những có tinh thần trách nhiệm mà cần có quan điểm quần chúng, có đầy đủ nhiệt tình đi sâu đi sát bàn bạc cách giải quyết vừa bảo đảm đường lối, chính sách, pháp luật, vừa sát hợp với tình hình thực tế.

Phương hướng giải quyết những trường hợp cụ thể:

A. NHÀ Ở NÔNG THÔN

Nhà ở nông thôn gắn liền với đất. Nông thôn ta đang trên con đường đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, bất kỳ ở đâu, người nông dân cũng có quyền có chỗ đất làm nhà ở.

Trước hết, cần xác định quyền sở hữu bình đẳng của bên vợ và bên chồng đối với tài sản chung của họ như Điều 15 và 29 Luật Hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, việc chia nhà cho ai xuất phát từ tình hình cụ thể từng việc để giải quyết. Trên cơ sở chính sách của Đảng và Nhà nước ở nông thôn, giáo dục hai bên đảm bảo đoàn kết, cùng nhau hoà giải để giải quyết. Trường hợp hoà giải không được Toà án sẽ xét xử.

1. Nhà do hai vợ chồng tạo lập trong thời gian chung sống là tài sản chung của vợ chồng - việc chia nhà cho bên vợ hay chồng cần phải xem xét các mặt như:

- Hai người có thực sự ở nhà đó từ trước đến khi ly hôn hay vợ hoặc chồng có nơi ở khác. Sau khi ly hôn, ai đảm nhận việc nuôi giữ con chung.

- Ai có khó khăn hơn trong việc tạo lập nơi ở mới.

Trong trường hợp người chồng thoát ly gia đình công tác xa không có cha mẹ già ở chung, chỉ có một mình vợ ở nông thôn làm ăn nuôi con, lâu nay vẫn ở trong nhà đó thì khi ly hôn nên chia nhà cho người vợ, người chồng sẽ nhận những tài sản khác; nếu tài sản khác không còn gì đáng giá thì có thể xử cho người vợ bù 1 khoản tiền tương xứng với quyền lợi của người chồng được hưởng.

Trường hợp hai vợ chồng vẫn ở chung thì cần xem xét cụ thể ai cần nhà hơn, ai có khó khăn hơn sau khi ly hôn thì xử giao nhà cho người đó. Nếu hai bên thực sự đều có khó khăn trong việc tạo lập chỗ ở mới thì ngăn chia nhà đó cho cả hai bên sử dụng. Diện tích chia cho mỗi bên sử dụng nhiều hay ít tuỳ thuộc cụ thể vào việc đảm nhận nuôi con cái, không nhất thiết chia đôi. Nếu nhà quá chật không thể chia được hoặc khi mâu thuẫn sâu sắc hai người không muốn ở cùng nhà, thì cần ưu tiên cho người nào khó khăn hơn, nhất là đối với phụ nữ phải nuôi con nhỏ. Người không được chia nhà sẽ nhận tài sản khác hoặc bù tiền - Nếu trong khối tài sản chung có những thứ vật liệu làm nhà được kể cả tre, gỗ trong vườn nên chia cho bên không được giao nhà.

Nhà gắn liền với đất - Trong trường hợp đất rộng thì có thể chia đất cho cả hai bên - Nếu trên đất có cây ăn trái thì cũng chia cho thoả đáng - Nếu đất ở quá hẹp, mà hai người không còn chỗ đất nào khác thì cần được bàn bạc với địa phương để có sự giúp đỡ điều chỉnh cho người không được chia nhà 1 chỗ đất để làm nhà ở.

2. Nhà của cha mẹ chồng (hoặc cha mẹ vợ). Trong trường hợp vợ chồng ăn ở chung với cha mẹ và gia đình nhà chồng (hay nhà vợ) mà người đó có công sức đóng góp với gia đình chồng hay vợ thì khi ly hôn quyền lợi của người đó được giải quyết bằng hình thức đền bù công sức - việc đền bù đó có thể bằng một khoản tiền, cũng có thể bằng hiện vật.

a) Nếu khi ly hôn, người vợ thực sự có khó khăn về chỗ ở và còn nuôi con chung, thì cần bàn bạc để gia đình nhà chồng với sự giúp đỡ của hợp tác xã, tạo điều kiện cho người phụ nữ làm nhà ở nơi khác. Gia đình nhà chồng đền bù công sức cho người vợ bằng vật liệu xây dựng nhà tre, gỗ, gạch..., một số công lao động và phí tổn làm nhà.

b) Trường hợp gia đình nhà chồng có chỗ ở tương đối rộng, người vợ làm dâu đã lâu, có nhiều công sức đóng góp xây dựng nhà chồng thì khi ly hôn nên hoà giải để người vợ và các con ở lại một phần nhà của gia đình nhà chồng, tính như đền bù công sức bằng hiện vật.

c) Nếu người con dâu mới về nhà chồng chưa có đóng góp với nhà chồng nhiều (đối với người con rể cũng vậy) thì khi ly hôn vấn đề nhà không đặt ra, nhưng trường hợp người đó thực sự có khó khăn về chỗ ở thì cũng tuỳ tình hình cụ thể cần giúp đỡ để họ tạo lập nơi ở mới.

d) Trong các trường hợp trên nếu cần có thời gian tìm chỗ ở khác thì gia đình chồng tạm thời để họ ở lại một thời gian cho đến khi tạo lập được nơi ở mới. Người chồng và gia đình nhà chồng nên có sự giúp đỡ để người vợ sớm có chỗ ở khác.

Trong trường hợp nếu cha mẹ chồng đã chết, di sản thừa kế chưa chia thì cần giải quyết chia thừa kế, phần của người chồng nhập vào tài sản chung của vợ chồng để chia. Cần quan tâm quyền lợi người vợ, nhưng cũng không xâm phạm quyền lợi chính đáng các cái thừa kế khác ở gia đình nhà chồng. Về tố tụng, phải đưa những người này hoặc đại diện của họ tham gia với tư cách dự sự.

3. Nhà do cha mẹ làm cho con ở riêng khi cưới vợ hoặc sau khi cưới, cha mẹ cho thêm tiền, vật liệu để con làm nhà.

Khi xét xử cần đi sâu tìm hiểu thực tế, xem xét nguồn gốc việc làm nhà, ý thức của gia đình khi làm nhà đó; quá trình sử dụng, bảo quản, tu sửa kể cả xây dựng thêm... Nếu xác định được nhà đó cha mẹ làm cho con hoặc cho thêm tiền vật liệu để con tự làm (trên đất của hợp tác xã phân cho hay đất của gia đình nhà chồng cũng vậy), mà lâu nay người con vẫn sử dụng, tu bổ thì phải xem đó là nhà của con. Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định rõ vợ chồng có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới. Tuỳ tình hình mà giải quyết việc chia nhà như tài sản chung của vợ chồng đã nói ở phần trên.

Nếu đất vườn xung quanh là của gia đình chồng lại tương đối rộng và có hoa lợi như cây ăn trái thì khi giải quyết cắt một phần đất vườn theo nhà, số đất vườn còn lại vẫn thuộc gia đình chồng.

Trong trường hợp làm nhà với ý thức cho con, nhưng cha mẹ (hoặc 1 trong 2 người) cùng ở với con từ trước, nay cha mẹ cũng không có chỗ ở nào khác, thì khi giải quyết cần xem xét cụ thể, quan tâm cả đến quyền lợi của cha mẹ; có thể coi là đồng sở hữu, chia cho cha mẹ và cả hai vợ chồng mỗi người một phần nhà; hoặc chia nhà cho người chồng thì chia rộng hơn trong đó có cả phần của cha mẹ. Nếu nhà chật chỉ có thể chia cho người vợ ở nuôi con, cha mẹ chồng không muốn ở cùng thì cần trích một phần tài sản hoặc không có tài sản thì người con dâu phải bù tiền để cha mẹ chồng có điều kiện ở nơi khác.

Đối với miền núi: Giải quyết chia nhà trong ly hôn cũng vẫn phải dựa trên nguyên tắc chung nhưng kết hợp với phong tục tập quán địa phương. Dù người vợ làm dâu hay người chồng làm rể, khi ly hôn, cần giải quyết thoả đáng để người không được chia nhà có điều kiện làm nhà khác.

B. NHÀ Ở THÀNH PHỐ, THỊ XÃ

Ở các thành phố, thị xã khi giải quyết vấn đề nhà trong các vụ ly hôn, ngoài các nguyên tắc quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình, cần chú ý đến chính sách Nhà nước thống nhất quản lý nhà cửa, chính sách quản lý hộ khẩu ở thành phố và thị xã mà còn phải tính đến thực tế hiện nay là tình hình nhà cửa rất khó khăn để việc xử lý sát đúng cả về nội dung và thẩm quyền. Việc giải quyết trên nguyên tắc bảo đảm quyền lợi chính đáng của người dân là quyền có chỗ ở.

1. Nhà do vợ chồng tạo lập: Nói chung khi ly hôn nên giải quyết chia nhà để mỗi bên được sử dụng một phần. Diện tích mỗi bên nhiều hay ít là tuỳ tình hình cụ thể từng việc. Nếu người nào đã nhận con chung hoặc có cha mẹ ở cùng thì có thể chia rộng hơn.

Nếu người chồng hoặc người vợ đang sinh sống, làm ăn nơi khác, hộ khẩu thường trú ở nơi đó, ở nhà không có cha mẹ, hoặc người phải nuôi dưỡng thì có thể chia nhà cho người ở địa phương để ổn định cuộc sống. Trường hợp người chồng đang tại ngũ vẫn yêu cầu được chia nhà thì cần bảo đảm quyền lợi của người chồng, tạm giao phần của chồng cho người vợ quản lý. Tóm lại, việc chia nhà cho 1 bên chỉ nên hạn chế trong trường hợp họ tự bàn bạc thoả thuận, hoặc vì nhà quá chật mà bên kia có điều kiện tìm nơi ở khác như về ở chung với cha mẹ, hoặc vào tập thể cơ quan, xí nghiệp.

Ở các thành phố, thị xã miền Nam, đang tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa về nhà cửa, nếu trong diện tích đó thì cần có sự xác nhận của ban cải tạo. Trừ phần Nhà nước cải tạo, phần nào để cho vợ chồng ở lúc đó sẽ chia.

Trường hợp nhà mua của Nhà nước theo hình thức trả tiền dần, mặc dầu trong văn tự mua nhà đứng tên một bên vợ hoặc chồng, vẫn xem là tài sản chung và giải quyết theo hướng nói trên. Nợ tiền Nhà nước chưa trả hết thì hai bên có trách nhiệm trả theo tỷ lệ phần nhà được chia.

Nếu nhà trên đất tương đối rộng, nên chia cả đất, nếu một bên không được nhà, có thể chia đất rộng hơn để có điều kiện làm nhà khác.

2. Vợ chồng ở nhà cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ

Trong trường hợp ly hôn mà vợ chồng chưa có con hoặc có ít con, thời gian chung sống chưa lâu thì thông thường người con dâu hoặc con rể đi ở nơi khác, ít có tranh chấp về nhà ở.

Trường hợp người vợ về làm dâu trong gia đình nhà chồng lâu năm, có công sức đóng góp với nhà chồng, lại đông con, khi ly hôn người vợ đang phải nuôi con nhỏ và thực sự có khó khăn trong việc tìm chỗ ở mới, xét bình quân diện tích trong nhà chồng cao hơn mức bình quân chung ở thành thị, thì cũng có thể giải quyết cho người vợ được lưu lại nơi ở cũ trong gia đình nhà chồng với một diện tích phù hợp, coi như việc đền bù công sức bằng hiện vật.

Nếu vợ chồng ở cùng nhà cha mẹ, nhưng kinh tế hoàn toàn riêng biệt thì khi ly hôn không có vấn đề đền bù công sức, nhưng khi giải quyết chỗ ở vẫn phải xem xét tình hình nhà cửa, mức bình quân diện tích chung, cộng với hoàn cảnh cụ thể về chỗ ở của người vợ hay người chồng nếu họ thực sự chưa có chỗ ở khác thì tạm thời cho họ được ở lại để có thời gian tìm chỗ ở khác. Bản thân người đó phải tích cực tìm nơi ăn chốn ở mới, nhưng người chồng và gia đình chồng cũng tạo điều kiện, giúp đỡ người phụ nữ có chỗ ở khác.

3. Nhà cho thuê (của Nhà nước và tư nhân)

Nhà ở thuê không phải tài sản của vợ chồng cho nên khi ly hôn việc chia nhà không đặt ra. Tuy vậy, có vấn đề quyền lợi người thuê nhà của cả người vợ hoặc người chồng dù chỉ 1 bên đứng hợp đồng thuê. Khi ly hôn, cả 2 bên đều có quyền tiếp tục ở với tư cách là người thuê nếu họ không có nơi ở khác. Do hoàn cảnh vợ chồng đã thay đổi khi ly hôn họ đã tách thành hai hộ, có thể có sự tranh chấp về chỗ ở. Việc tranh chấp này trước hết hai người tự hoà giải và được giải quyết theo nguyên tắc và trình tự đã quy định trong bản Điều lệ cho thuê nhà ở thành phố và thị xã. Hai bên ly hôn có thể cùng bên cho thuê nhà (Sở nhà đất hoặc tư nhân) bàn bạc để điều chỉnh lại hợp đồng thuê nhà - Nếu không tự giải quyết được thì Uỷ ban nhân dân và cơ quan quản lý nhà đất sẽ giải quyết.

Toà án không quyết định việc chia diện tích nhà thuê cho mỗi bên. Nhưng nếu có tranh chấp gay gắt và để đảm bảo trật tự xã hội, ổn định trước mắt cuộc sống của mỗi bên, trong bản án ly hôn, Toà án có thể tạm thời phân định cho mỗi bên sử dụng 1 phần nhà ở thuê. Sau đó các đương sự sẽ đề đạt đến cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết.

4. Nhà do cơ quan phân phối

Cũng như nhà ở thuê, nhà do cơ quan phân phối không phải là tài sản chung của vợ chồng nên không đặt vấn đề chia nhà khi ly hôn. Cơ quan quản lý và phân phối nhà cho họ sẽ tuỳ tình hình cụ thể mà sắp xếp phù hợp với hoàn cảnh mới của họ. Toà án không quyết định vấn đề chia nhà trong bản án ly hôn. Nếu họ có tranh chấp thì cơ quan quản lý họ sẽ giải quyết theo các chế độ, chính sách về nhà ở đối với cán bộ, công nhân, viên chức.

 

 

Phạm Hưng

(Đã ký)

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 69/TATC

Loại văn bảnChỉ thị
Số hiệu69/TATC
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành24/12/1979
Ngày hiệu lực08/01/1980
Ngày công báo...
Số công báo
Lĩnh vựcQuyền dân sự, Bất động sản
Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
Cập nhật18 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Download Văn bản pháp luật 69/TATC

Lược đồ Chỉ thị 69/TATC giải quyết vấn đề nhà chỗ ở đương sự sau khi ly hôn


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản sửa đổi, bổ sung

        Văn bản bị đính chính

          Văn bản được hướng dẫn

            Văn bản đính chính

              Văn bản bị thay thế

                Văn bản hiện thời

                Chỉ thị 69/TATC giải quyết vấn đề nhà chỗ ở đương sự sau khi ly hôn
                Loại văn bảnChỉ thị
                Số hiệu69/TATC
                Cơ quan ban hànhTòa án nhân dân tối cao
                Người kýPhạm Hưng
                Ngày ban hành24/12/1979
                Ngày hiệu lực08/01/1980
                Ngày công báo...
                Số công báo
                Lĩnh vựcQuyền dân sự, Bất động sản
                Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
                Cập nhật18 năm trước

                Văn bản thay thế

                  Văn bản được dẫn chiếu

                    Văn bản hướng dẫn

                      Văn bản được hợp nhất

                        Văn bản được căn cứ

                        Văn bản hợp nhất

                          Văn bản gốc Chỉ thị 69/TATC giải quyết vấn đề nhà chỗ ở đương sự sau khi ly hôn

                          Lịch sử hiệu lực Chỉ thị 69/TATC giải quyết vấn đề nhà chỗ ở đương sự sau khi ly hôn

                          • 24/12/1979

                            Văn bản được ban hành

                            Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                          • 08/01/1980

                            Văn bản có hiệu lực

                            Trạng thái: Có hiệu lực