Công văn 1106TM/XNK

Công văn 1106TM/XNK về hợp tác xuất khẩu gạo Việt Nam - Thái Lan do Bộ Thương mại ban hành

Nội dung toàn văn Công văn 1106TM/XNK hợp tác xuất khẩu gạo giữa Việt Nam và Thái Lan


BỘ THƯƠNG MẠI
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 1106 TM/XNK
V/v Hợp tác xuất khẩu gạo Việt Nam - Thái Lan

Hà Nội, ngày 7 tháng 5 năm 2001

 

Kính trình: Thủ tướng chính phủ

Tiếp công văn số 1614 TM/VP, ngày 02 tháng 5 năm 2001, về cuộc gặp giữa hai Bộ trưởng Thương mại Việt Nam và Thái Lan để bàn về vấn đề xuất khẩu gạo; Bộ Thương mại xin được báo cáo một số nội dung liên quan đến việc hợp tác xuất khẩu gạo giữa ta và Thái Lan như sau:

I. Thực trạng hợp tác:

Cho đến nay, các thoả thuận về sự hợp tác chưa có kết quả: Bản ghi nhớ ký giữa hai Bộ Thương mại về hợp tác trao đổi thông tin (26.4.1994) đến MOU về việc thành lập một quỹ đạo bán trung ký ngày 19/9/2000.

Duy chỉ có bản ghi nhớ giữa Hiệp hội Lương thực Việt nam và Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan 10/5/2000 về trao đổi thông tin đang được hai phía thực hiện, nhưng cũng chỉ trong phạm vi: trao đổi thông tin về tình hình thị trường lúa gạo, tình hình xuất khẩu gạo của mỗi nước, những chủ trương chính sách của Nhà nước mỗi bên có liên quan đến mặt hàng này, trao đổi kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động của Hiệp hội cũng như hợp tác trong việc đánh giá tình hình và xu hướng diễn biến của Thị trường gạo thế giới nhằm bảo vệ lợi ích của các thành viên Hiệp hội là chính.

Một vài cuộc thăm viếng của các Đoàn thuộc hai Hiệp hội cũng đã được thực hiện từ sau khi ký Bản ghi nhớ này đến tháng 12/2000 vừa qua.

II. Về mục đích hợp tác của Thái Lan:

1. Thái Lan hiện nay cũng đã rất khó khăn trong việc tiêu thụ lúa gạo. Chính phủ Thái vừa can thiệp để mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo trắng tồn kho (loại 5-25% tấm là loại gạo đang có phẩm chất tương tự, cạnh tranh với Việt Nam) thì từ nay đến hết năm Thái Lan cần tiêu thụ trên 2 triệu tấn gạo loại này.

Thêm vào đó, các chương trình đưa ra trước bầu cử như việc giãn nợ hỗ trợ khu vực sản xuất nông nghiệp, trợ giúp cho từng làng xã... nay trở thành một gánh nặng mà Chính phủ mới của Thái Lan phải đối đầu.

2. Những lý lẽ mà phía Thái Lan đưa ra khi đề cập tới sự hợp tác giữa hai nước như: quyền lợi người sản xuất ở hai nước chưa được bảo đảm, hai nước chiếm thị phần lớn nhưng nay đang bị các nước nhập khẩu định giá và Thoả thuận (MOU) về hợp tác bán gạo chưa đi vào cuộc sống... nên cần tìm cách hợp tác là ý tưởng tích. Việc hợp tác với Thái Lan có thể sẽ làm giảm phần nào sức ép của người nhập khẩu đối với giá xuất khẩu của ta hiện nay.

3. Tuy nhiên, Thái Lan còn có những mục đích khác trong việc hợp tác với ta.

Nhìn lại Pool Rice (ký 19/9/2000) có thể thấy rõ Thái Lan có hai mục tiêu:

- Một là, trước bầu cử, muốn tuyên truyền để tranh thủ sự ủng hộ của nông dân Thái.

- Hai là, muốn giành lại thị trường tiêu thụ hàng trắng, đặc biệt là loại 25% tấm. Đoàn Bộ Thương mại và Hiệp hội xuất khẩu gạo Thái Lan khi sang làm việc với ta vào đầu tháng 7/2000 đã không ngần ngại đề nghị các thị trường hai bên lập quỹ gạo bán chung vào là Philippines, Indonnesia, Cuba.

Điều đó còn được thể hiện rõ hơn tại lần hai nước dự thầu lô gạo 300 ngàn tấn mà Philipines mở thầu đầu tháng 3 vừa qua. Nếu như trước đây Philipines tiêu thụ một khối lượng khá lớn gạo Thái Lan thì năm 2000 gạo Ấn Độ, Việt Nam, Trung Quốc đã chiếm phần lớn thị phần. Vì vậy, sau khi bỏ giá cực thấp (so với giá BOT công bố cùng thời điểm, cùng thời hạn và điều kiện giao hàng mà các công ty Thái Lan đang bán sang thị trường khác, Thái Lan phải bù lỗ 17-18USD/tấn), thấp hơn lô gạo Việt Nam trúng thầu tới hơn 3USD/tấn, thì ngay chiều 9/3 Đoàn Thái Lan gặp NFA tỏ ý sắn sàng cung cấp nốt 150 ngàn tấn còn lại với giá thấp hơn giá đã trúng thầu.

Vì những lẽ trên, việc hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực này còn có nhiều trở ngại do liên quan trực tiếp đến lợi ích của mỗi quốc gia.

III. Dự kiến về những đề nghị của Thái Lan có thể sẽ đưa ra và thái độ của ta:

Mặc dầu nhận thức như vậy về những tính toán của Thái Lan và sự hạn chế của hợp tác, ta vẫn nên hưởng ứng sự hợp tác này vì chí ít cũng có tác động tâm lý và qua đó hiểu được ý tứ của Thái Lan.

Từ nhận định trên, Bộ Thương mại đề nghị:

1- Giảm sản lượng lúa của mỗi nước

Có thể Thái nêu ý tưởng giảm sản lượng. Về mặt này tình hình như sau: Sản lượng lúa của ta từ 29,1 triệu tấn năm 1998 đã tăng lên 32,5 triệu tấn vào năm 2000; Thái Lan cũng tăng từ 22,5 triệu tấn lên 24,5 triệu tấn. Như vậy nếu xét theo giá trị tuyệt đối thì ta có mức tăng trung bình ba năm cao hơn Thái Lan, nếu tính mức xuất khẩu (cùng trong thời gian 1998 -2000) thì bình quân mỗi năm Thái Lan xuất 6,55 triệu tấn, ta chỉ xuất khẩu 3,91 triệu tấn, bằng khoảng 60% Thái Lan, trong khi tổng sản lượng hàng năm của Việt Nam luôn gần gấp 1,5 lần so với Thái Lan.

Tuy nhiên, ta có thể xem xét khả năng hai nước thông tin cho nhau về kế hoạch sản xuất, duy trì sản lượng hợp lí để hạn chế bớt “cung” trên thị trường. Ví dụ ta duy trì ở mức 33 triệu tấn/năm; Thái Lan giữ ở mức vụ 1997-1998 (22,5 triệu tấn). Đồng thời cũng có thể tính đến việc hai bên ấn định số lượng gạo xuất khẩu tối đa hàng năm, ví dụ Việt Nam trên dưới 4 triệu tấn/năm, và Thái Lan dưới 6 triệu tấn/năm. Điều này cũng có thể cải thiện được giá thị trường gạo.

2- Thống nhất giá xuất khẩu

Điều này sẽ có lợi cho phía Thái Lan, vì những lý do sau:

- Chất lượng gạo xuất khẩu hai nước khác nhau, nếu so cùng độ gãy thì gạo Thái có chất lượng cao hơn gạo ta nên khách hàng sẽ lựa chọn mua gạo Thái;

- Các điều kiện liên quan khác: tốc độ xếp dỡ, điều kiện bảo quản, kho hàng, chi phí liên quan đến giao hàng... Thái Lan luôn thuận lợi hơn nên sẽ hấp dẫn khách hàng hơn;

- Quan hệ về thị trường, bạn hàng quen biết và thường xuyên thì Thái Lan hiện đang có lợi hơn ta;

- Giá thành gạo nước ta khác nhau (giá thành gạo Việt Nam thấp hơn, chất lượng thấp nếu bán theo giá thống nhất với giá của Thái chắc chắn ta không bán được và phải chờ đợi);

- Từ năm 2001 này Việt Nam đã thực hiện chính sách tự do hoá đối với mặt hàng gạo, việc định một giá chuẩn là khó thực hiện. Việc Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp sẽ khó được chấp nhận.

Do đó, ta không nên chấp nhận mà chỉ nên giao Hiệp hội hai nước tiếp tục hợp tác trao đổi thông tin, cùng công bố giá cho các loại gạo từng nước trong từng thời điểm để các nhà kinh doanh xuất khẩu gạo tham khảo. Thực tế đây cũng là một trong 4 nội dung mà phía Việt Nam đưa ra và được phía Thái Lan hưởng ứng trong buổi làm việc ngày 06/7/2000 tại Hà Nội giữa Bộ Thương mại Việt Nam và Bộ Thương mại Thái (do Ngài Krirk-Krai Jirapaet- lúc ấy là Vụ trưởng Vụ Ngoại thương làm đại diện).

3- Thành lập lại quỹ gạo để bán vào một số thị trường tiêu thụ lớn:

Thực tế đây là một cách phân chia lại thị phần ở một số nước tiêu thụ nhiều gạo mà cả hai bên đang có lợi thế khác nhau. Có điều, thị trường mà phía Thái Lan có thể đồng ý “phân chia” thì gạo ta không đáp ứng được về chất lượng còn ở các thị trường Philipines - Indonesia - Cuba thì Thái Lan lại muốn kiềm chế ta; còn một số thị trường Châu Phi có mua gạo trắng hàng năm ngót 2 triệu tấn của Thái Lan thì họ không nhắc tới.

Việc lập Quỹ gạo bán chung là cần thiết và hai nước nên bàn lại, ký lại một Thoả thuận mới (điều này phù hợp với một ý muốn của các quan chức của Chính phủ mới - đặc biệt là ở Bộ Thương mại Thái Lan), số lượng có thể đưa lên cao hơn (500 ngàn tấn từ hai bên), chứ không hẳn 200 ngàn tấn như Pool cũ.

Các thị trường trong khối ASEAN nên được loại ra vì mục đích lập Quỹ gạo là để giữ giá, bảo vệ quyền lợi người sản xuất và xuất khẩu, nếu mục đích này lại nhằm vào các nước ASEAN gần gũi nhất chắc sẽ không được các nước tiêu thụ trong khối ủng hộ; và thực ra, trong khu vực này Philipines nhập khẩu nhiều nhất năm nay đã được đáp ứng nhu cầu do Việt Nam đã bán vào Philipines trên 500 ngàn tấn; Thái Lan và các nước khác trên 200 ngàn tấn.

Các khu vực thị trường mà Pool gạo hướng tới nên khu vực châu Phi, các nước Mỹ-Latin, hoặc Bắc á... vì hiện nay Bắc Triều Tiên đang hỏi mua của Việt Nam và cả Thái Lan. Chủng loại gạo và những nội dung cụ thể khác nên giao các Bộ phận kỹ thuật của hai Bộ Thương mại bàn trực tiếp.

IV- Một số đề nghị khác với phía Thái Lan

Ngoài ra ta có thể gợi ý để việc hợp tác này có hiệu quả, trước mắt cần tiếp tục làm những việc cụ thể như sau:

1. Hai Bộ Thương mại Việt Nam - Thái Lan thường xuyên cung cấp thông tin cần thiết, tin cậy liên quan đến sản xuất và xuất khẩu gạo của mỗi nước cũng như tình hình về thị trường tiêu thụ.

2. Giao hai Bộ Thương mại phối hợp nghiên cứu để thành lập một Hiệp Hội xuất khẩu gạo, trước hết là trong khối ASEAN mà cụ thể là ba nước Việt Nam - Thái Lan - Miến Điện.

3. Về ý tưởng hợp tác với Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan... thì ta không phản đối về ý tưởng song đề nghị thăm dò ý các nước đó và cho chuyên viên thảo luận.

Bộ Thương mại xin kính trình Thủ tướng và đề nghị sớm cho ý kiến chỉ đạo để kịp chuẩn bị./.

 

 

BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI




Vũ Khoan

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Công văn 1106TM/XNK

Loại văn bảnCông văn
Số hiệu1106TM/XNK
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành07/05/2001
Ngày hiệu lực07/05/2001
Ngày công báo...
Số công báo
Lĩnh vựcThương mại, Xuất nhập khẩu
Tình trạng hiệu lựcKhông xác định
Cập nhật18 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Download Công văn 1106TM/XNK

Lược đồ Công văn 1106TM/XNK hợp tác xuất khẩu gạo giữa Việt Nam và Thái Lan


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản sửa đổi, bổ sung

        Văn bản bị đính chính

          Văn bản được hướng dẫn

            Văn bản đính chính

              Văn bản bị thay thế

                Văn bản hiện thời

                Công văn 1106TM/XNK hợp tác xuất khẩu gạo giữa Việt Nam và Thái Lan
                Loại văn bảnCông văn
                Số hiệu1106TM/XNK
                Cơ quan ban hànhBộ Thương mại
                Người kýVũ Khoan
                Ngày ban hành07/05/2001
                Ngày hiệu lực07/05/2001
                Ngày công báo...
                Số công báo
                Lĩnh vựcThương mại, Xuất nhập khẩu
                Tình trạng hiệu lựcKhông xác định
                Cập nhật18 năm trước

                Văn bản thay thế

                  Văn bản được dẫn chiếu

                    Văn bản hướng dẫn

                      Văn bản được hợp nhất

                        Văn bản được căn cứ

                          Văn bản hợp nhất

                            Văn bản gốc Công văn 1106TM/XNK hợp tác xuất khẩu gạo giữa Việt Nam và Thái Lan

                            Lịch sử hiệu lực Công văn 1106TM/XNK hợp tác xuất khẩu gạo giữa Việt Nam và Thái Lan

                            • 07/05/2001

                              Văn bản được ban hành

                              Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                            • 07/05/2001

                              Văn bản có hiệu lực

                              Trạng thái: Có hiệu lực