Công văn 1352/TM-KHTK

Công văn số 1352/TM-KHTK ngày 12/04/2002 của Bộ Thương mại về việc góp ý cho Chương trình phát triển chế biến gỗ lâm sản đến năm 2010

Nội dung toàn văn Công văn 1352/TM-KHTK góp ý cho Chương trình phát triển chế biến gỗ lâm sản 2010


BỘ THƯƠNG MẠI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 1352/TM-KHTK
V/v: Góp ý kiến cho Chương trình phát triển chế biến gỗ và lâm sản đến năm 2010

Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2002

 

Kính gửi: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

 

Sau khi nhận được công văn số 1970 BKH/NN ngày 1/4/2002 của Quý Bộ về việc đề nghị góp ý kiến cho Chương trình phát triển chế biến gỗ và lâm sản đến năm 2010. Bộ Thương mại có một số ý kiến như sau:

I. NHẬN XÉT CHUNG:

Chương trình phát triển chế biến gỗ và lâm sản đến năm 2010 đã khái quát khá đầy đủ thực trạng ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản (song, mây tre trúc), trình bày được những mục tiêu, phương hướng, hiệu quả và biện pháp tổ chức thực hiện. Bộ Thương mại đánh giá cao những nội dung đã được đề cập trong chương trình. Kết cấu chương trình về cơ bản là hợp lý.

II. MỘT SỐ Ý KIẾN THAM GIA CỤ THỂ:

1. Các chỉ tiêu về xuất khẩu đến năm 2005 và 2010 được dự kiến như trong báo cáo là có tính khả thi; lưu ý là sẽ có sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tăng sản phẩm xuất khẩu qua chế biến tinh, giảm tương đối sản phẩm xuất khẩu sơ chế.

2. Về cơ chế, chính sách xuất, nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ hiện nay đã gần như cởi mở hoàn toàn. Từ năm 2001 Nhà nước đã quy định rất rõ ràng và lần đầu tiên ổn định cho một giai đoạn khá dài (5 năm). Theo đó, các loại gỗ rừng tự nhiên để sản xuất sản phẩm gô xuất khẩu được bãi bỏ hạn mức và không cần phê duyệt chỉ tiêu. Mọi dạng sản phẩm gỗ đều được tự do xuất khẩu (trừ gỗ tròn, gỗ xẻ khai thác từ rừng tự nhiên trong nước). Nhập khẩu gỗ hoàn toàn tự do (trừ gỗ từ Campuchia) và được phép xuất khẩu dưới mọi dạng sản phẩm, kể cả tái xuất gỗ tròn, gỗ xẻ không phải chịu thuế xuất khẩu. Tuy nhiên các sản phẩm gỗ từ gỗ cây và gỗ rừng tự nhiên ở trong nước hiện nay còn chịu mức thuế từ 5 - 15%. Nếu thuế suất cụ thể có sự chênh lệch không hợp lý, đề nghị có thuyết trình rõ để kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh.

3. Về tiêu thụ sản phẩm gỗ trên thị trường nội địa: cần được bổ sung thêm. Trong dự thảo, phần này chưa được đề cập trong khi xu thế tiêu thụ sản phẩm gỗ trên thị trường nội địa sẽ phát triển mạnh, với cơ cấu chủng loại ngày càng phong phú.

4. Về phương hướng phát triển của ngành công nghiệp giấy (Phần II. B) quan tâm thêm ý sau:

· Theo tính toán của các nhà Khoa học, nhà máy giấy phải đạt sản lượng 50 ngàn tấn/năm trở lên thì mới có hiệu quả kinh tế. Vì vậy, đối với các nhà máy thuộc Tổng công ty Giấy hoặc các doanh nghiệp nhà nước thì phải đạt sản lượng như trên mới cho phép đầu tư. Còn đối với các thành phần kinh tế khác thì nên định hướng và thông tin cho họ biết để lựa chọn.

· Vấn đề quan trọng đối với nhà máy giấy là (1) xử lý nước thải, bảo vệ môi trường sinh thái; (2) giảm giá thành sản xuất (bởi vì giá giấy của ta hiện nay cao hơn giá thế giới từ 20 - 30%) (3) đầu tư vùng nguyên liệu xung quanh nhà máy để đủ nguyên liệu sản xuất trong thời gian hàng chục năm (bằng hợp đồng hai chiều mà nhà nước đang khuyến khích).

5. Về công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản (Phần II. B)

Tại điểm 1 nguồn nguyên liệu gỗ và lâm sản cần nói thêm về gỗ cây cao su (khai thác những cây già cỗi để trồng cây cao su mới). Theo quy hoạch của Ngành Cao su thì đến năm 2010 sẽ có 500 - 700 ngàn ha cây cao su. Hàng năm có thể khai thác hàng vạn m3 gỗ cao su để chế biến đồ gỗ. Hiện nay cũng đã khai thác hàng nghìn m3 mỗi năm.

6. Một số chỗ cần xem xét hoàn thiện lại (phần IV, trang 11):

· Đến năm 2010, tổng giá trị sản phẩm gỗ, lâm sản là 18.070 tỷ đồng. Trong đó, giá trị kim ngạch xuất khẩu là 1,01 tỷ USD. Như vậy phải chăng xuất khẩu chiếm hơn 5/6 sản lượng?.

· Trong bài có trang viết là nguyên liệu song may, tre trúc (trang 1, 2) trang khác lại viết là song mây, tre nứa (trang 9, 10) vì vậy nên thống nhất một cách viết hoặc bổ sung thêm vì trúc và nứa là hai loại cây khác nhau.

Trên đây là một số ý kiến góp với Chương trình phát triển chế biến gỗ và lâm sản đến năm 2010 của Bộ Thương mại, xin gửi tới Quý Bộ để tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ.

 

KT. BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI
THỨ TRƯỞNG




Hồ Huấn Nghiêm

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Công văn 1352/TM-KHTK

Loại văn bảnCông văn
Số hiệu1352/TM-KHTK
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành12/04/2002
Ngày hiệu lực12/04/2002
Ngày công báo...
Số công báo
Lĩnh vựcThương mại
Tình trạng hiệu lựcKhông xác định
Cập nhật17 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Download Công văn 1352/TM-KHTK

Lược đồ Công văn 1352/TM-KHTK góp ý cho Chương trình phát triển chế biến gỗ lâm sản 2010


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản sửa đổi, bổ sung

        Văn bản bị đính chính

          Văn bản được hướng dẫn

            Văn bản đính chính

              Văn bản bị thay thế

                Văn bản hiện thời

                Công văn 1352/TM-KHTK góp ý cho Chương trình phát triển chế biến gỗ lâm sản 2010
                Loại văn bảnCông văn
                Số hiệu1352/TM-KHTK
                Cơ quan ban hànhBộ Thương mại
                Người kýHồ Huấn Nghiêm
                Ngày ban hành12/04/2002
                Ngày hiệu lực12/04/2002
                Ngày công báo...
                Số công báo
                Lĩnh vựcThương mại
                Tình trạng hiệu lựcKhông xác định
                Cập nhật17 năm trước

                Văn bản thay thế

                  Văn bản được dẫn chiếu

                    Văn bản hướng dẫn

                      Văn bản được hợp nhất

                        Văn bản được căn cứ

                          Văn bản hợp nhất

                            Văn bản gốc Công văn 1352/TM-KHTK góp ý cho Chương trình phát triển chế biến gỗ lâm sản 2010

                            Lịch sử hiệu lực Công văn 1352/TM-KHTK góp ý cho Chương trình phát triển chế biến gỗ lâm sản 2010

                            • 12/04/2002

                              Văn bản được ban hành

                              Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                            • 12/04/2002

                              Văn bản có hiệu lực

                              Trạng thái: Có hiệu lực