Nội dung toàn văn Công văn 948/TCT-CS 2019 chuyển lợi nhuận ra nước ngoài
BỘ TÀI CHÍNH | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 948/TCT-CS | Hà Nội, ngày 20 tháng 03 năm 2019 |
Kính gửi: Cục Thuế thành phố Hà Nội
Tổng cục Thuế nhận được công văn số 77484/CT-TTHT ngày 22/11/2018 của Cục thuế TP Hà Nội về việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của Văn phòng điều hành và các công ty nước ngoài đóng vai trò nhà thầu chính đối với các dự án tại Việt Nam, Văn phòng bán vé của hãng hàng không nước ngoài tại Việt Nam. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Căn cứ Điều 2 Luật đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26/11/2014 của Quốc hội quy định về đối tượng áp dụng: “Luật này áp dụng đối với nhà đầu tư và tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh.”
Căn cứ Điều 11 Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 quy định về bảo đảm chuyển tài sản của Nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài: “Sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam theo quy định của pháp luật, nhà đầu tư nước ngoài được chuyển ra nước ngoài các tài sản sau đây:
1. Vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư;
2. Thu nhập từ hoạt động đầu tư kinh doanh;
3. Tiền và tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư.”
Căn cứ Điều 1 Thông tư số 186/2010/TT-BTC ngày 18/11/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các tổ chức, cá nhân nước ngoài có lợi nhuận từ việc đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo quy định của Luật Đầu tư quy định đối tượng áp dụng:
“Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo quy định tại Điều 21, Điều 22, Điều 23, Điều 24, Điều 25 của Luật Đầu tư (dưới đây gọi chung là nhà đầu tư nước ngoài), chuyển lợi nhuận từ kết quả đầu tư tại Việt Nam ra nước ngoài theo quy định tại Điều 2 Thông tư này.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư gián tiếp tại Việt Nam theo quy định tại Điều 26 của Luật Đầu tư, việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thực hiện theo quy định của pháp luật liên quan.”
Căn cứ Thông tư 103/2014/TT-BTC ngày 6/8/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam.
Căn cứ theo các quy định trên:
Trường hợp các Công ty nước ngoài tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam dưới hình thức là Nhà thầu nước ngoài áp dụng chế độ kế toán tại Việt Nam và thực hiện đăng ký thuế, được cơ quan thuế cấp mã số thuế; thực hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, nộp thuế GTGT trên cơ sở kê khai doanh thu, chi phí để xác định thu nhập chịu thuế TNDN theo quy định tại Mục 2 Thông tư số 103/2014/TT-BTC khi chuyển lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh tại Việt Nam ra nước ngoài phải thực hiện theo quy định tại Thông tư số 186/2010/TT-BTC nêu trên.
Trường hợp công ty nước ngoài tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam dưới hình thức là Nhà thầu nước ngoài không thực hiện chế độ kế toán Việt Nam và thực hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT, nộp thuế TNDN theo tỷ lệ % tính trên doanh thu theo quy định tại Mục 3 Thông tư số 103/2014/TT-BTC hoặc nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, nộp thuế TNDN theo tỷ lệ % trên doanh thu tính thuế theo quy định tại Mục 4 Thông tư số 103/2014/TT-BTC khi chuyển lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh tại Việt Nam ra nước ngoài theo quy định tại Điều 11 Luật đầu tư số 67/2014/QH13 thì không phải thực hiện theo quy định tại Thông tư số 186/2010/TT-BTC nêu trên.
Thủ tục, hồ sơ chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thực hiện theo quy định tại Thông tư số 186/2010/TT-BTC nêu trên.
Đối với quy định tại Thông tư số 186/2010/TT-BTC liên quan đến hình thức đầu tư quy định tại Luật đầu tư số 59/2005/QH11 (đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp), Tổng cục Thuế ghi nhận và nghiên cứu để có sửa đổi phù hợp trong thời gian triển khai xây dựng các văn bản hướng dẫn về Luật quản lý thuế để phù hợp với Luật đầu tư số 67/2014/QH13.
Tổng cục Thuế trả lời để Cục Thuế TP Hà Nội được biết và hướng dẫn đơn vị thực hiện./.
| TL. TỔNG CỤC TRƯỞNG |