Văn bản khác 24-KL/TW

Kết luận 24-KL/TW về đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo do Bộ Chính trị ban hành

Nội dung toàn văn Kết luận 24-KL/TW đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo


BỘ CHÍNH TRỊ
--------

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------

Số: 24-KL/TW

Hà Nội, ngày 5 tháng 6 năm 2012

 

KẾT LUẬN

VỀ ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC QUY HOẠCH VÀ LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ ĐẾN NĂM 2020 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO

Xem xét Tờ trình của Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 30-11-2004 và Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 25-1-2002 của Bộ Chính trị (khoá IX) về công tác quy hoạch cán bộ và công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Tờ trình số 110-TTr/BTCTW, ngày 5-4-201 2), Bộ Chính trị kết luận:

I. TÌNH HÌNH, KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÔNG TÁC QUY HOẠCH VÀ CÔNG TÁC LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ

Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về công tác quy hoạch và công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, các cấp uỷ, tổ chức đảng đã tích cực triển khai, đạt được một số kết quả quan trọng, góp phần đổi mới công tác cán bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên đã nhận thức sâu sắc hơn về công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ. Trong một số năm gần đây, công tác quy hoạch cán bộ ở các ban, bộ, ngành, địa phương đã dần đi vào nền nếp, đạt được một số kết quả quan trọng; nguồn quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý ở cấp huyện, tỉnh và các ban, bộ, ngành Trung ương tương đối dồi dào; trình độ đào tạo, cơ cấu ngành nghề, tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc ít người đã có bước tiến bộ. Công tác luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ về cơ bản đã được thực hiện theo quy hoạch. Kết quả bầu cử, bổ nhiệm cán bộ thời gian qua có trên 95% cấp uỷ viên, gần 100% uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ (nhiệm kỳ 2010-2015) và cán bộ lãnh đạo chủ chốt hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện (nhiệm kỳ 2011-2016) và hầu hết cán bộ được bổ nhiệm các chức danh thuộc Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý đều là cán bộ trong quy hoạch. Quy hoạch cán bộ đã góp phần thúc đẩy việc thực hiện đồng bộ hơn, chất lượng hơn các khâu khác trong công tác cán bộ.

Các cấp uỷ, tổ chức đảng tích cực triển khai công tác luân chuyển cán bộ, góp phần đào tạo, thử thách cán bộ qua thực tiễn và tăng cường cán bộ cho những nơi có khó khăn, khắc phục một bước xu hướng cục bộ, khép kín, trì trệ của đội ngũ cán bộ. Kết quả luân chuyển cán bộ từ Trung ương về địa phương trong hai nhiệm kỳ Đại hội IX và X đã góp phần đào tạo được nhiều cán bộ; nhiều đồng chí đã được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương khoá X, khoá XI, được tín nhiệm bầu làm bí thư tỉnh uỷ hoặc giữ chức vụ chủ chốt ở các bộ, ngành Trung ương và cơ quan của Quốc hội. Trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo các tỉnh, thành phố hiện nay, trên 95% cán bộ lãnh đạo chủ chốt hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và trên 98% uỷ viên ban thường vụ các tỉnh uỷ, thành uỷ đã qua luân chuyển giữ chức vụ lãnh đạo chủ chốt ở cấp quận, huyện. Kết quả luân chuyển một số chức danh cán bộ không là người địa phương ở cấp tỉnh và cấp huyện đạt kết quả tốt. Hầu hết cán bộ qua luân chuyển đều có bước trưởng thành, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm thực tiễn, có quan điểm nhìn nhận và phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện hơn, sát thực tế hơn.

Có được những kết quả nêu trên là do các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cấp, các ngành đã có nhận thức, thống nhất cao hơn, chủ động, tích cực hơn trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; kết hợp công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, luân chuyển với bố trí, sử dụng và bảo đảm chính sách cán bộ; làm tốt công tác tư tưởng và tổ chức, vừa bảo đảm sự ổn định vừa coi trọng yêu cầu phát triển của đội ngũ cán bộ.

Tuy nhiên, công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ còn những hạn chế, yếu kém: Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ ở một số địa phương, đơn vị chưa căn cứ chủ yếu vào đánh giá cán bộ, chưa xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ và năng lực thực tiễn của cán bộ, chưa gắn quy hoạch với đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ, dẫn đến nhiều đề án quy hoạch còn hình thức, thiếu tính khả thi. Chất lượng quy hoạch cán bộ chưa cao, chưa đồng đều và hầu hết các đề án quy hoạch chưa có tầm nhìn xa, chưa bảo đảm cơ cấu 3 độ tuổi. Cơ cấu cán bộ trong quy hoạch chưa cân đối, ít cán bộ trẻ, cán bộ nữ; trình độ, ngành nghề đào tạo của cán bộ ở nhiều nơi chưa phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Nhìn tổng thể, quy hoạch cán bộ thời gian qua chưa có sự liên thông giữa cấp dưới với cấp trên, giữa địa phương với Trung ương, giữa các ngành, các lĩnh vực công tác..., chưa quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước.

Một số nơi thực hiện luân chuyển đào tạo cán bộ chưa dựa trên cơ sở đánh giá và quy hoạch. Việc luân chuyển cán bộ trong một ngành, giữa các ngành với nhau, giữa cán bộ làm công tác đảng, mặt trận, đoàn thể với quản lý nhà nước nhìn chung còn ít, còn khép kín, chưa phát huy được sức mạnh của cả đội ngũ, còn tình trạng nơi thừa, nơi thiếu cán bộ. Chủ trương luân chuyển, bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo không là người địa phương nhằm khắc phục tình trạng cục bộ, trì trệ, khép kín ít được thực hiện do chưa có quy định cụ thể. Việc lựa chọn địa bàn, chức danh luân chuyển trong một số trường hợp còn bất hợp lý, thậm chí còn trái ngành, trái nghề, vừa không đáp ứng được yêu cầu đào tạo, vừa hạn chế sự đóng góp của cán bộ luân chuyển. Sự quản lý, giám sát, quan tâm, tạo điều kiện đối với cán bộ luân chuyển từ phía các cơ quan, nhất là từ nơi đi, nơi đến chưa được quy định cụ thể, dẫn đến việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ sau luân chuyển có trường hợp còn bất cập, thiếu chính xác. Về phía cán bộ luân chuyển, một số ít còn chậm tiếp cận với công việc, đóng góp đối với địa phương còn hạn chế, cá biệt còn có biểu hiện chọn địa bàn, chọn vị trí sau luân chuyển… Chế độ nhà công vụ và một số chế độ, chính sách khác chưa được nghiên cứu quy định cụ thế, làm hạn chế công tác luân chuyển cán bộ.

II. PHƯƠNG HƯỚNG TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC QUY HOẠCH CÁN BỘ VÀ CÔNC TÁC LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ

Đế tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác quy hoạch và công tác luân chuyển cán bộ, các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cấp, các ngành cần thực hiện tốt các mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ, giải pháp sau:

1- Mục tiêu, yêu cầu

1.1- Quán triệt và thực hiện có hiệu quả và đồng bộ nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay"; trong đó, đẩy mạnh công tác quy hoạch cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, có tầm nhìn chiến lược cho cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, trước hết là quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước đủ phẩm chất, năng lực, bảo đảm 3 độ tuổi, có tính kế thừa, phát triển, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.

1.2- Đẩy mạnh công tác luân chuyển, đào tạo cán bộ, đồng thời thực hiện chủ trương luân chuyển, bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt (bí thư, chủ tịch uỷ ban nhân dân, trưởng các ngành công an, toà án, viện kiểm sát) không là người địa phương, phấn đấu đến năm 2015 trên 25% tỉnh, thành phố và trên 50% quận, huyện thực hiện chủ trương này; kết hợp bố trí, sắp xếp hợp lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở các cấp, các ngành, khắc phục tình trạng nơi thừa, nơi thiếu cán bộ và hiện tượng cục bộ, trì trệ, quan liêu, tham nhũng, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Thông qua việc luân chuyển, bố trí cán bộ ở những địa bàn, lĩnh vực khó khăn để phát hiện người tài, nhằm đào tạo, thử thách, chuẩn bị đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý lâu dài của đất nước.

1.3- Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ đi đôi với đề cao thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ; tăng cường kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục cho được những hạn chế, yếu kém trong từng khâu công tác cán bộ, trước hết là đánh giá cán bộ; bổ sung, sửa đổi và ban hành cơ chế, chính sách mới nhằm khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; thu hút người có phẩm chất, năng lực vào các cơ quan trong hệ thống chính trị.

2- Nhiệm vụ và giải pháp

2.1- Đẩy mạnh công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ đồng thời với việc đổi mới đồng bộ các khâu khác trong công tác cán bộ, trước hết là đổi mới công tác đánh giá cán bộ, xác định thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và trong quy hoạch, luân chuyển cán bộ:

Tiến hành xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cán bộ theo tiêu chuẩn chức danh, theo hiệu quả công việc và sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Coi trọng đánh giá của cấp trưởng đối với cấp phó; đánh giá của người đứng đầu tổ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan, đơn vị trực thuộc. Quy định việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan đảng, nhà nước, mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức và cá nhân cùng cấp; cấp dưới góp ý, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên. Công khai lĩnh vực công tác, chỉ tiêu nhiệm vụ được giao và kết quả thực hiện nhiệm vụ của cán bộ để đảng viên và nhân dân theo dõi, giám sát, góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm và thông qua đó để xem xét, đánh giá cán bộ. Đánh giá, lựa chọn cán bộ thông qua cơ chế thi tuyển, sát hạch hằng năm đối với cán bộ từ cấp cục, vụ và tương đương trở xuống theo phương châm làm cái gì thi cái đó; xây dựng phương thức đánh giá cán bộ trong mối quan hệ biện chứng giữa kết quả thi, sát hạch và năng lực, thành tích công tác, uy tín, sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Gắn đánh giá cán bộ theo định kỳ với kiểm điểm, tự phê bình và phê bình hằng năm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI). Quy định thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và trong quy hoạch, luân chuyển cán bộ.

2.2- Đổi mới công tác tạo nguồn cán bộ:

Đổi mới công tác tạo nguồn cán bộ theo hướng lựa chọn sinh viên tốt nghiệp loại giỏi ở các trường đại học có chất lượng cử về cơ sở (những nơi khó khăn, có nhu cầu) để đào tạo trong phong trào lao động, sản xuất, từ đó chọn lọc nguồn quy hoạch cán bộ lâu dài. Xây dựng, thực hiện cơ chế tiến cử cán bộ; cơ chế người đứng đầu đề xuất, chuẩn bị người quy hoạch thay thế mình, người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó; thí điểm giao quyền cho bí thư cấp uỷ giới thiệu để bầu uỷ viên ban thường vụ cấp ủy…

2.3- Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ:

Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong quy hoạch theo chức danh cán bộ, gắn lý thuyết với thực hành, kỹ năng xử lý thực tiễn đối với từng chức danh, ở từng cấp, từng ngành, từng lĩnh vực công tác; tăng lượng kiến thức về tư duy và tầm nhìn chiến lược, nhận thức và giải pháp ứng xử, đề phòng, giải quyết các vấn đề nảy sinh của quốc gia và quốc tế cho các đối tượng cán bộ dự nguồn cấp Trung ương. Xây dựng và thực hiện chế độ tập sự lãnh đạo, quản lý; cán bộ chủ chốt ở cấp trên nói chung phải kinh qua chủ chốt ở cấp dưới để đào tạo, thử thách cán bộ. Đẩy mạnh việc cập nhật kiến thức mới cho cán bộ quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp, kể cả đối với các Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Cải tiến phương pháp, quy trình kiểm tra, thi cử, đánh giá khách quan kết quả dạy và học, khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp, tuyệt đối hoá bằng cấp của cả người dạy, người học và của cơ quan làm công tác cán bộ và cơ quan sử dụng cán bộ.

2.4- Thực hiện nghiêm cơ cấu 3 độ tuổi trong quy hoạch cấp ủy và ban lãnh đạo, quản lý các cấp; tăng cường kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, bảo đảm tính thực chất, khả thi của đề án quy hoạch cán bộ:

Đề án quy hoạch và đề án nhân sự ban chấp hành, ban thường vụ các cấp uỷ phải bảo đảm cơ cấu 3 độ tuổi; cấp có thẩm quyền chỉ phê duyệt, xác nhận quy hoạch hoặc thông qua phương án nhân sự cấp uỷ khi quy hoạch hoặc phương án nhân sự đáp ứng được yêu cầu này. Việc bổ sung ban chấp hành, ban thường vụ các tỉnh uỷ, thành uỷ trong nhiệm kỳ chủ yếu bổ sung cán bộ trẻ, cán bộ nữ, đủ tuổi tham gia từ 2 nhiệm kỳ trở lên nhằm đào tạo, chuẩn bị nhân sự cho các khoá tiếp theo. Trường hợp đặc biệt không đáp ứng được yêu cầu về độ tuổi, phải xin chủ trương và được sự chấp thuận của ban thường vụ cấp uỷ cấp trên trước khi thực hiện quy trình nhân sự. Việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cần bảo đảm 3 độ tuổi trong lãnh đạo ở từng cấp; đối với cấp huyện và tương đương trở lên nhất thiết phải có cán bộ nữ trong cơ cấu lãnh đạo. Đối với việc bổ nhiệm chức danh thứ trưởng và tương đương trở lên cần phải được Ban Bí thư Trung ương Đảng đồng ý về chủ trương trước khi thực hiện quy trình nhân sự. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, các cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị phải đồng thời xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển đối với cán bộ trong quy hoạch; cấp có thẩm quyền khi phê duyệt hoặc xác nhận quy hoạch phải đồng thời phê duyệt, xác nhận kế hoạch luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch và xem xét, bổ sung nhân sự từ nơi khác vào quy hoạch của cấp dưới.

2.5- Áp dụng và thực hiện có hiệu quả quy hoạch cán bộ cấp chiến lược:

Xây dựng và thực hiện có hiệu quả quy hoạch cán bộ cấp chiến lược (Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước) nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo, bảo đảm tính kế thừa, phát triển và sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Bộ Chính trị quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện đối với các chức danh cán bộ cấp chiến lược làm cơ sở cho việc giới thiệu quy hoạch và luân chuyển, đào tạo cán bộ theo quy hoạch; gắn quy hoạch cán bộ cấp chiến lược với quy hoạch cán bộ lãnh đạo chủ chốt các địa phương, ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương; bảo đảm cơ cấu 3 độ tuổi trong các chức danh cán bộ; thực hiện quy hoạch "động" và "mở", mỗi chức danh quy hoạch 2 - 3 người và một người có thể quy hoạch từ 1 - 2 chức danh. Định kỳ đánh giá, rà soát, đưa ra khỏi quy hoạch những người không còn đủ tiêu chuẩn, điều kiện; bổ sung nhân tố mới vào quy hoạch. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị quyết định phương pháp, cách thức xây dựng và phạm vi, hình thức công khai quy hoạch cán bộ cấp chiến lược.

2.6- Đẩy mạnh công tác luân chuyển để đào tạo cán bộ và thực hiện bố trí một số chức danh lãnh đạo, quản lý không là người địa phương ở cấp tỉnh, cấp huyện và từng bước nghiên cứu thực hiện ở cấp xã, phường, thị trấn:

Xây dựng và thực hiện quy định về luân chuyển cán bộ, trong đó xác định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn, đối tượng luân chuyển đào tạo theo quy hoạch và quy trình luân chuyển, bố trí một số chức danh lãnh đạo, quản lý ở cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương. Thực hiện việc phân công cán bộ trong quy hoạch các chức danh cấp chiến lược đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo chủ chốt ở các địa bàn, lĩnh vực quan trọng, vùng có nhiều khó khăn để đào tạo, thử thách, tích luỹ kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý. Lựa chọn cán bộ trong quy hoạch cán bộ chủ chốt các bộ, ngành Trung ương, có phẩm chất, năng lực luân chuyển để giữ chức vụ bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố; cán bộ cấp cục, vụ và tương đương luân chuyển để giữ chức vụ chủ tịch, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân quận, huyện, trưởng ban, phó ban, giám đốc, phó giám đốc sở, ngành tỉnh, thành phố. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương luân chuyển, bố trí một số chức danh cán bộ không là người địa phương ở cấp tỉnh, cấp huyện; đồng thời tiếp tục thí điểm nhất thể hoá chức danh bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch uỷ ban nhân dân ở cấp huyện và xã để tổng kết, rút kinh nghiệm trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Tiếp tục thực hiện chủ trương tăng thêm một số chức danh lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền ở những địa phương có nhiều khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo hoặc ở những nơi thiếu cán bộ để vừa kết hợp luân chuyển, đào tạo, vừa tăng cường cán bộ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị... Xây dựng và thực hiện quy định về việc quản lý, giám sát đối với cán bộ luân chuyển; thực hiện chế độ nhà công vụ và ban hành khung chế độ, chính sách đối với cán bộ luân chuyển, tạo điều kiện để cán bộ luân chuyển yên tâm rèn luyện, cống hiến.

III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1- Căn cứ các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp nêu trên, các cấp uỷ, tổ chức đảng cần đẩy mạnh công tác quy hoạch và công tác luân chuyển cán bộ đồng thời với việc đổi mới đồng bộ các khâu khác trong công tác cán bộ.

2- Các cấp uỷ, tổ chức đảng lãnh đạo xây dựng tiêu chuẩn chức danh và tiêu chí đánh giá đối với từng chức danh cán bộ thuộc cấp mình quản lý; xây dựng tiêu chuẩn chức danh và tiêu chí đánh giá các chức danh cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý công tác tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, ban hành trong quý I-2013 (qua Ban Tổ chức Trung ương để tổng hợp thẩm định).

3- Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo việc xây dựng nhà công vụ ở Trung ương, tỉnh, huyện để thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ; ban hành khung chế độ, chính sách đối với cán bộ luân chuyển.

4- Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với các ban đảng ở Trung ương và các cơ quan có liên quan:

- Nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi các quy định, quy chế về công tác cán bộ, trong đó có công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) và Kết luận này, trình Bộ Chính trị xem xét, ban hành để thực hiện.

- Tham mưu, giúp Bộ Chính trị xây dựng Đề án quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo, báo cáo Bộ Chính trị, trình Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 6 (khoá XI).

- Chủ trì, phối hợp với các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng đoàn, ban cán sự đảng ở Trung ương và các cơ quan liên quan xây dựng Đề án luân chuyển đào tạo cán bộ nhiệm kỳ 2011- 2016 và Đề án bố trí một số chức danh cán bộ không là người địa phương đối với 20% - 25% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, quyết định.

 

 

T/M BỘ CHÍNH TRỊ




Lê Hồng Anh

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 24-KL/TW

Loại văn bảnVăn bản khác
Số hiệu24-KL/TW
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành05/06/2012
Ngày hiệu lực05/06/2012
Ngày công báo...
Số công báo
Lĩnh vựcBộ máy hành chính
Tình trạng hiệu lựcCòn hiệu lực
Cập nhật12 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Download Văn bản pháp luật 24-KL/TW

Lược đồ Kết luận 24-KL/TW đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản sửa đổi, bổ sung

        Văn bản bị đính chính

          Văn bản được hướng dẫn

            Văn bản đính chính

              Văn bản bị thay thế

                Văn bản hiện thời

                Kết luận 24-KL/TW đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo
                Loại văn bảnVăn bản khác
                Số hiệu24-KL/TW
                Cơ quan ban hànhBộ Chính trị
                Người kýLê Hồng Anh
                Ngày ban hành05/06/2012
                Ngày hiệu lực05/06/2012
                Ngày công báo...
                Số công báo
                Lĩnh vựcBộ máy hành chính
                Tình trạng hiệu lựcCòn hiệu lực
                Cập nhật12 năm trước

                Văn bản thay thế

                  Văn bản được căn cứ

                    Văn bản hợp nhất

                      Văn bản gốc Kết luận 24-KL/TW đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo

                      Lịch sử hiệu lực Kết luận 24-KL/TW đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo

                      • 05/06/2012

                        Văn bản được ban hành

                        Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                      • 05/06/2012

                        Văn bản có hiệu lực

                        Trạng thái: Có hiệu lực