Văn bản khác 45-KL/TW

Kết luận 45-KL/TW về thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế và cơ chế, chính sách ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước; cơ chế, chính sách bán cổ phần cho người lao động do Bộ Chính trị ban hành

Nội dung toàn văn Kết luận 45-KL/TW thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế và cơ chế


BỘ CHÍNH TRỊ
--------

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------

Số: 45-KL/TW

Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2009

 

KẾT LUẬN

VỀ THÍ ĐIỂM MÔ HÌNH TẬP ĐOÀN KINH TẾ VÀ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH NGĂN NGỪA THẤT THOÁT TÀI SẢN NHÀ NƯỚC; CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH BÁN CỔ PHẦN CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG

Tại phiên họp ngày 20-3-2009, sau khi nghe 2 Báo cáo của Ban cán sự đảng Chính phủ về "Việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế" và "Cơ chế, chính sách ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước; cơ chế, chính sách bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp cổ phần hoá và đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp có vốn nhà nước sau cổ phần hoá", ý kiến của Văn phòng Trung ương Đảng và các ban, ngành có liên quan, Bộ Chính trị đã thảo luận và kết luận:

I- Về việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế

Triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết Trung ương 3 (khoá IX), Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế từ đầu năm 2005. Hoạt động của các tập đoàn kinh tế trong thời gian qua đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và quyết tâm của Chính phủ trong điều hành để hình thành những doanh nghiệp nhà nước lớn trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, qua đó góp phần bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

1- Các tập đoàn kinh tế đã đạt được một số mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 3 (khoá IX) là:

- Đã tăng nhanh năng lực sản xuất, kinh doanh, đóng góp lớn cho việc bảo đảm cung ứng một số sản phẩm hàng hoá, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế; tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế; cùng với các tổng công ty nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; góp phần bảo đảm điều tiết vĩ mô của Nhà nước; tham gia tích cực vào việc bảo đảm an sinh xã hội.

- Một số tập đoàn kinh tế đã đầu tư mở rộng tầm hoạt động, phát triển ngành nghề phụ trợ, không chỉ tập trung đầu tư trong nước mà bước đầu vươn ra đầu tư ở nước ngoài, tạo dựng được hình ảnh của Việt Nam trong một số lĩnh vực đối với khu vực và trên thế giới.

- Quy mô vốn sở hữu của các tập đoàn kinh tế tăng lên đáng kể. Các tập đoàn đã huy động được một lượng vốn khá lớn từ các thành phần kinh tế khác thông qua việc cổ phần hoá các công ty thành viên của tập đoàn và thành lập mới các công ty cổ phần. Qua cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên và một phần do tích tụ vốn ở mỗi tập đoàn nên quy mô vốn sở hữu của các tập đoàn kinh tế đã tăng lên, cải thiện một bước năng lực tài chính.

- Bước đầu thực hiện được sự gắn kết giữa nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học - công nghệ, đào tạo và sản xuất, kinh doanh.

- Hoạt động của các tổ chức đảng, đoàn thể trong tập đoàn kinh tế từng bước được củng cố, năng lực và sức chiến đấu của tổ chức đảng được tăng cường.

2- Bên cạnh những kết quả đạt được, mô hình tập đoàn kinh tế vẫn còn những bất cập, còn cần phải tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện dần trong điều kiện nền kinh tế của Việt Nam.

- Khuôn khổ pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của các tập đoàn chưa đầy đủ. Chưa có quy định cụ thể cho việc thành lập, tổ chức, hoạt động tập đoàn theo Luật Doanh nghiệp (năm 2005).

- Hiệu quả hoạt động của một số tập đoàn kinh tế còn chưa tương xứng với nguồn lực hiện có. Nhiều mục tiêu đặt ra cho các tập đoàn kinh tế chưa đạt được. Hoạt động của các tập đoàn kinh tế chưa nổi bật về chất lượng và hiệu quả so với khi còn là tổng công ty nhà nước. Thiếu sự phối hợp, liên kết, gắn bó, hỗ trợ giữa các tập đoàn kinh tế, làm hạn chế việc phát huy thế mạnh chuyên ngành riêng của từng tập đoàn.

- Một số tập đoàn còn thiếu năng động, nhạy bén trong sản xuất, kinh doanh; chưa chủ động trong hội nhập, thiếu sức cạnh tranh, thậm chí còn có tư tưởng “chờ đợi" bao cấp từ Nhà nước. Vẫn còn tư tưởng, tâm lý muốn nắm giữ độc quyền doanh nghiệp ở một vài tập đoàn trong ngành, lĩnh vực mà mình hoạt động.

- Sự tham gia của các thành phần kinh tế vào tập đoàn còn hạn chế. Quy mô vốn sở hữu của các tập đoàn còn nhỏ so với những tập đoàn trong khu vực kinh doanh cùng ngành nghề.

- Mục tiêu phát triển đa ngành, đa lĩnh vực của các tập đoàn chưa được thực hiện tốt. Một số loại hình kinh doanh đa ngành của các tập đoàn kinh tế trùng dẫm, có lúc gây cản trở hoạt động của các tập đoàn kinh tế khác. Một số tập đoàn có lúc lại quan tâm đầu tư vào các lĩnh vực có nhiều rủi ro và chuyên ngành đặc thù không liên quan đến lĩnh vực chính với tỉ lệ vốn cao trong tổng số vốn đầu tư ra bên ngoài của công ty mẹ, làm hạn chế hiệu quả hoạt động chung và kém an toàn về tài chính của tập đoàn.

- Mô hình tổ chức quản lý của Nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế và tổ chức quản lý nội bộ tập đoàn chưa được định hình rõ. Còn để tình trạng trùng lắp về tên gọi của công ty mẹ với tên gọi của tập đoàn. Mô hình tập đoàn thay đổi không nhiều so với tổng công ty hoạt động theo mô hình "công ty mẹ - công ty con". Chưa có sự phân định rõ chức năng đại diện chủ sở hữu với chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành. Phương thức điều hành giữa công ty mẹ với công ty con và vai trò điều tiết, chi phối của tập đoàn thông qua công ty mẹ còn hạn chế.

3- Phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện mô hình tập đoàn kinh tế

Bộ Chính trị giao Ban cán sự đảng Chính phủ tiến hành tổng kết đầy đủ hơn về mô hình tập đoàn kinh tế và lưu ý một số vấn đề sau:

- Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho tổ chức và hoạt động của tập đoàn phù hợp với đặc điểm ngành kinh tế và thực tiễn Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Trong đó, cần làm rõ tiêu chí về mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước.

- Cần rà soát và phân tích kỹ hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế, có hướng điều chỉnh mô hình tổ chức và hoạt động của từng tập đoàn theo yêu cầu thực tiễn đặt ra.

- Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế. Phân định rõ chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước của các tập đoàn. Nghiên cứu đề án để sớm thực hiện việc tách chức năng đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước của các tập đoàn, tổng công ty với chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan. Trước mắt, củng cố tổ chức, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các tập đoàn; chưa thực hiện việc giao phần vốn nhà nước tại các tậpđoàn kinh tế, các tổng công ty về Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện tổ chức quản lý trong nội bộ tập đoàn.

- Xác định rõ nhiệm vụ, ngành nghề kinh doanh chính của các tập đoàn, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của tập đoàn ngày càng mạnh hơn. Nghiên cứu xác định cơ cấu ngành kinh doanh của các tập đoàn. Cần quy định mức khống chế tỉ lệ vốn đầu tư ra ngoài lĩnh vực chính đối với các tập đoàn kinh tế của Nhà nước. Quy định mức khống chế tỉ lệ vốn nhà nước đối với những doanh nghiệp nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối. Quy định rõ tỉ lệ vốn huy động (vốn vay) trên vốn sở hữu của các tập đoàn để tránh rủi ro, bảo đảm an toàn tài chính của tập đoàn. Trước mắt, cần rà soát lại, rút kinh nghiệm và chấn chỉnh việc đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng thương mại, chứng khoán, bất động sản đối với những tập đoàn không phải kinh doanh chính ở các lĩnh vực này.

- Xác định rõ lĩnh vực nào cần phải tổ chức tập đoàn; tiêu chí là tập đoàn đa sở hữu có vốn nhà nước chi phối. Đồng thời, có kế hoạch dài hạn 5 năm, 10 năm triển khai mô hình tập đoàn kinh tế trong những lĩnh vực cần thiết. Trước mắt, tập trung tiếp tục chỉ đạo thí điểm các tập đoàn đã thành lập và nghiên cứu cho thí điểm thành lập thêm 3 - 4 tập đoàn mới ở những lĩnh vực cần thiết khi có đủ điều kiện. Lưu ý việc thành lập mới các tập đoàn không được làm suy yếu năng lực và sức cạnh tranh của các thành phần kinh tế; không làm tăng cửa quyền, độc quyền doanh nghiệp trong các lĩnh vực kinh doanh ấy. Tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo tập đoàn tương xứng với quyền hạn được giao.

- Khẩn trương tiến hành đánh giá lại giá trị tài sản nhà nước tại các tập đoàn và tổng công ty. Có chế tài xử lý các cá nhân sai phạm, gây thất thoát tài sản nhà nước trong quá trình cổ phần hoá. Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và hiệu quả hoạt động của từng tập đoàn để có cơ chế phát triển phần vốn nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đồng thời bảo đảm điều kiện kinh doanh có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn.

Cuối năm 2010, Ban cán sự đảng Chính phủ báo cáo Bộ Chính trị kết quả tiếp tục chỉ đạo thí điểm xây dựng các tập đoàn kinh tế.

II- Về cơ chế, chính sách ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước; cơ chế, chính sách bán cổ phần cho ngưòi lao động tại doanh nghiệp cổ phần hoá và đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp có vốn nhà nước sau cổ phần hoá

Bộ Chính trị cơ bản nhất trí với Báo cáo của Ban cán sự đảng Chính phủ về 3 vấn đề quan trọng của cổ phần hoá là cơ chế, chính sách ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước, bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp cổ phần hoá và đổi mới quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hoá.

1- Về đánh giá tình hình

Bên cạnh những kết quả đạt được là cơ bản, vẫn còn có một số điểm hạn chế cần lưu ý giải quyết sớm như:

- Tuy chính sách cổ phần hoá từng bước được hoàn thiện, ngày càng chặt chẽ hơn, minh bạch hơn nhưng cần được hoàn thiện để tránh sơ hở và bị một số đối tượng lợi dụng trục lợi. Tình trạng xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng còn lúng túng, chậm thu hồi tài sản nhà nước; việc xác định trách nhiệm và xử lý cá nhân vi phạm còn hạn chế.

- Chính sách bán cổ phần cho người lao động nhằm khuyến khích họ gắn bó lâu dài với doanh nghiệp còn nhiều lúng túng.

- Hoạt động của các định chế tài chính trong định giá doanh nghiệp theo cơ chế thị trường còn yếu, chưa định giá được giá trị thương hiệu vào giá trị doanh nghiệp, quyền thuê đất chưa được tính thoả đáng vào giá trị doanh nghiệp.

- Hoạt động quản lý, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp sau cổ phần hoá, kể cả việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất sau cổ phần hoá chưa chặt chẽ, nhất là đối với doanh nghiệp mà vốn nhà nước không còn chi phối. Còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, kiện toàn về người đại diện phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hoá và Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.

- Hoạt động của các tổ chức đảng và đoàn thể trong các doanh nghiệp sau cổ phần hoá bị ảnh hưởng, đặc biệt là ở những doanh nghiệp nhà nước không giữ cổ phần chi phối gặp khó khăn, vai trò của tổ chức đảng và các tổ chức, đoàn thể yếu đi. Đời sống của người lao động ở một số doanh nghiệp sau cổ phần hoá chưa được cải thiện, khoảng cách giàu nghèo tăng lên, tài sản nhà nước bị thu hẹp dần.

2- Về những giải pháp

Bộ Chính trị nhất trí với các giải pháp nêu trong Báo cáo của Ban cán sự đảng Chính phủ, đồng thời nhấn mạnh một số phương hướng và giải pháp sau:

- Nâng cao chất lượng công tác xác định giá trị của doanh nghiệp theo hướng phù hợp với giá thị trường

Hoàn thiện cơ chế, chính sách và tăng cường năng lực của các tổ chức tài chính trung gian bảo đảm việc xác định giá trị doanh nghiệp sát đúng giá thị trường.

Nghiên cứu áp dụng kiểm toán giá trị doanh nghiệp sau khi đơn vị tư vấn định giá.

Thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng trong việc đưa giá trị đất vào giá trị tài sản của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường trước khi cổ phần hoá. Trước mắt, trong khi chưa sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về đất đai, khi xác định giá trị doanh nghiệp phải tính giá trị lợi thế doanh nghiệp (bao gồm cả lợi thế vị trí đất đai cho sản xuất, kinh doanh), giá trị thương hiệu của doanh nghiệp; đồng thời, việc xác định giá trị doanh nghiệp có tính giá trị quyền sử dụng đất phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất và mục đích đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp. Chấn chỉnh các trường hợp vi phạm, thay đổi mục đích sử dụng đất khi không được chấp thuận của các cơ quan có thẩm quyền.

- Đổi mới chính sách bán cổ phần cho người lao động

Đổi mới chính sách bán cổ phần ưu đãi cho người lao động thông qua nhiều phương thức để tạo sự gắn bó chặt chẽ, lâu dài giữa người lao động với doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X; nghiên cứu sớm việc bán cổ phần ưu đãi theo hướng thu hút được lao động giỏi, có thời gian gắn bó lâu dài với doanh nghiệp.

Có chính sách ưu đãi và áp dụng phương thức bán cổ phần cho cổ đông chiến lược để thu hút được các cổ đông chiến lược, đặc biệt cổ đông chiến lược nước ngoài đáp ứng các tiêu chí về tài chính, công nghệ, thị trường, đào tạo… đủ khả năng hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sau cổ phần hoá; đồng thời xử lý hài hoà để không làm phương hại đến quyền lợi của chủ sở hữu là Nhà nước.

Tăng cường công tác quản lý các doanh nghiệp sau cổ phần hoá

Sớm ban hành chính sách, pháp luật liên quan đến quản lý đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước làm căn cứ để sử dụng và kinh doanh vốn nhà nước đạt hiệu quả.

Hoàn thiện tổ chức quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau cổ phần hoá theo hướng khắc phục những hạn chế trong thời gian qua. Trước mắt, kiện toàn tổ chức Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước để thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá.

Tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Đổi mới doanh nghiệp nhà nước.

Tiếp tục thực hiện chủ trương tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp nhà nước để hình thành những tập đoàn, tổng công ty nhà nước đủ mạnh chi phối nền kinh tế và có vai trò, vị trí ngày càng lớn, có đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn, tổng công ty cùng ngành kinh doanh trong khu vực.

- Về tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp

Trong giai đoạn hiện nay, kinh tế trong nước và thế giới đang suy giảm. Cần dãn tiến độ cổ phần hoá ra cho phù hợp, không nhất thiết phải tập trung hoàn thành trong 2 năm 2009 - 2010.

- Tăng cường xây dựng tổ chức đảng và đoàn thể trong các doanh nghiệp sau cổ phần hoá

Giao Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng và các đoàn thể trong các tập đoàn kinh tế và các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá để có hướng dẫn thực hiện thống nhất.

 

 

T/M BỘ CHÍNH TRỊ




Trương Tấn Sang

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 45-KL/TW

Loại văn bảnVăn bản khác
Số hiệu45-KL/TW
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành10/04/2009
Ngày hiệu lực10/04/2009
Ngày công báo...
Số công báo
Lĩnh vựcDoanh nghiệp, Lao động - Tiền lương
Tình trạng hiệu lựcCòn hiệu lực
Cập nhật15 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Download Văn bản pháp luật 45-KL/TW

Lược đồ Kết luận 45-KL/TW thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế và cơ chế


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản sửa đổi, bổ sung

        Văn bản bị đính chính

          Văn bản được hướng dẫn

            Văn bản đính chính

              Văn bản bị thay thế

                Văn bản hiện thời

                Kết luận 45-KL/TW thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế và cơ chế
                Loại văn bảnVăn bản khác
                Số hiệu45-KL/TW
                Cơ quan ban hànhBộ Chính trị
                Người kýTrương Tấn Sang
                Ngày ban hành10/04/2009
                Ngày hiệu lực10/04/2009
                Ngày công báo...
                Số công báo
                Lĩnh vựcDoanh nghiệp, Lao động - Tiền lương
                Tình trạng hiệu lựcCòn hiệu lực
                Cập nhật15 năm trước

                Văn bản thay thế

                  Văn bản được dẫn chiếu

                    Văn bản hướng dẫn

                      Văn bản được hợp nhất

                        Văn bản được căn cứ

                          Văn bản hợp nhất

                            Văn bản gốc Kết luận 45-KL/TW thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế và cơ chế

                            Lịch sử hiệu lực Kết luận 45-KL/TW thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế và cơ chế

                            • 10/04/2009

                              Văn bản được ban hành

                              Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                            • 10/04/2009

                              Văn bản có hiệu lực

                              Trạng thái: Có hiệu lực