Nghị định 44-NĐ

Nghị định 44-NĐ năm 1958 Sửa đổi Nghị định 348-NĐ về Luật đi đường bộ do Bộ trưởng Bộ Giao Thông và Bưu Điện ban hành

Nội dung toàn văn Nghị định 44-NĐ Sửa đổi Luật đi đường bộ Nghị định 48-NĐ ngày 03-12-1955


BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 44-NĐ

Hà Nội, ngày 27 tháng 05 năm 1958 

 

NGHỊ ĐỊNH

SỬA ĐỔI LUẬT ĐI ĐƯỜNG BỘ BAN HÀNH DO NGHỊ ĐỊNH SỐ 348-NĐ NGÀY 03-12-1955

BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN

Căn cứ Nghị định số 348-NĐ ngày 03-12-1955 ban hành Luật đi đường bộ;
Căn cứ Nghị định số 139/NĐ ngày 19-12-1955 sửa đổi điều 22 và điều 24 của Luật đi đường bộ;
Theo đề nghị của Nha Giao thông và sau khi đã có ý kiến của Bộ Công an,

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1. Nay thêm vào Luật đi đường bộ một điều như sau:

Điều 1-b thêm – Chấp hành luật –  “Tất cả các loại xe cộ, bất luận là xe công hay xe tư, xe cơ giới hay xe thô sơ, đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Luật đi đường bộ này.

Điều 2. – Nay bãi bỏ điều 31 trong Luật đi đường bộ.

Điều 3. – Nay sửa đổi như sau các điều 6, 8, 10, 19, 20, 21, 32 và 41 trong Luật đi đường bộ:

Điều 6 mới. – “Tốc độ - Người lái xe lúc nào cũng phải làm chủ được tốc độ của xe. Trong những trường hợp dưới đây, tốc độ xe phải giảm đến mức không nguy hiểm để có thể tránh được tai nạn và nếu cần, xe phải đỗ hẳn lại:

- Qua các thành phố, thị xã, thị trấn, các quãng đường có nhà làm sát lề đường, những nơi có đông người tụ họp;

- Qua cầu, qua giữa quãng đường xấu, đường hẹp, đường ngoặt, vv…

- Khi không trông rõ đường vì trời có sương mù hay mưa to, lúc trời đã sầm tối hay chưa sáng tỏ, xe không đi đèn;

- Khi tránh hay vượt các xe khác, khi tránh các chướng ngại vật trên đường;

- Ban đêm khi tắt đèn pha đi đèn cốt.”

Điều 8 mới. – “Bánh xe – Xe trâu, xe bò, xe ngựa bánh bằng sắt phải bảo đảm tiêu chuẩn.

60kg (trọng lượng xe và hàng hóa xếp trên xe)

1cm (bề rộng tổng cộng của các bánh xe)

và bề rộng tối thiểu của bánh xe phải là 6cm.

Những xe đang dùng bề rộng của bánh xe không đủ 6cm vẫn được phép dùng cho đến khi hỏng bánh.

Xe cơ giới bánh bằng xích (Chenille) không được chạy trên đường ô tô trừ trường hợp đặc biệt được cơ quan giao thông cho phép”.

Điều 10 mới. – “Đỗ xe - Nếu không có lý do chính đáng, xe không được đỗ ở đường.

Xe đỗ ở đường phải hết sức tránh làm cản trở sự đi lại trên đường và không được cản lối ra vào của các nhà ở ven đường.

Trong các đường phố, xe không được đỗ sát bờ hè nhưng không được đỗ cách bờ hè quá 20cm.

Trên đường trường nếu lề đường rộng, xe phải đỗ hẳn ra lề đường.

Trong các thành phố, thị xã và thị trấn, cấm xe cộ các loại đỗ:

- Cách đầu ngã ba, ngã tư dưới 5cm;

- Ở những chỗ đường ngoặt;

- Trong các hàng đanh;

- Gần những địa điểm đỗ của các tàu điện và xe buýt.

Trên đường trường, xe cộ không được đỗ:

- Cách gần ngã ba, ngã tư dưới 10mét;

- Trong cầu và gần đầu cầu;

- Gần đầu dốc và gần chỗ đường cong nếu tầm nhìn cả hai phía bị che khuất trong vòng 50mét.

Khi xe đỗ, người lái xe không được bỏ xe đi chỗ khác trước khi thi hành những biện pháp cần thiết để ngăn ngừa tai nạn. Nếu vì bị hư hỏng hay vì tai nạn mà xe phải nằm đường, hàng hóa dỡ xuống chưa kịp mang đi thì người lái xe phải thu xếp, bố trí để sự đi lại không bị cản trở và nếu trời tối thì phải có đèn báo hiệu.

Điều 19 mới. – “Tốc độ tối đa - Trừ các xe chữa cháy, xe hộ đê, xe cứu thương, xe công an và xe quân sự khi những xe đó thực sự có việc khẩn cấp, tất cả các loại xe cơ giới không được chạy quá tốc độ quy định như sau:

a) Đường đồng bằng.

- Xe ô tô hạng nặng                 40km 1 giờ

- Xe ô tô con và mô tô             50km

- Xích lô máy và xe đạp máy   25km

b) Đường đồi núi.

- Xe ô tô hạng nặng                20km 1 giờ

- Xe ô tô con và mô tô             35km

- Xích lô máy và xe đạp máy   15km

c) Trong các thành phố, thị xã và thị trấn.

- Xe ô tô hạng nặng                 15km 1 giờ

- Xe ô tô con và mô tô             30km

- Xích lô máy và xe đạp máy   12km

Ở các thành phố và thị xã, tùy theo tình hình đường phố, Ủy ban hành chính  có thể ấn định những tốc độ tối đa thấp hơn mức trên để đảm bảo an toàn giao thông.

Trong các thành phố, thị xã và thị trấn cũng như trên đường trường ở những nơi nào có biển hạn chế tốc độ thì các xe phải tuyệt đối tuân theo.

Những xe không bị hạn chế tốc độ nói ở trên phải mang dấu hiệu thống nhất cho mỗi loại để tiện việc kiểm soát.”.

Điều 20 mới. – “Tránh xe – Khi hai xe tránh nhau ở những quãng đường hẹp hay nguy hiểm thì cả hai xe đều phải giảm tốc độ và nếu cần thì một xe phải đỗ hẳn lại cho xe kia đi. Xe nào muốn đi trước thì phải làm hiệu xin đường (giơ tay lên hoặc nhấp nháy đèn) và phải chờ cho xe kia ra hiệu bằng lòng nhường đường và đỗ lại rồi mới được đi.

Nếu đường hẹp chỉ đủ cho một xe đi và có bố trí chỗ tránh thì xe nào gần chỗ tránh hơn phải lui về chỗ tránh để nhường đường cho xe kia.

Tránh nhau ở giữa dốc hẹp thì xe ở trên dốc xuống phải đỗ lại cho xe ở dưới dốc tiến lên.

Hai xe gặp nhau, xe nào thấy bên đường đi của mình bị vướng thì phải đỗ lại nhường cho xe kia đi.

Ban đêm xe ô tô và mô tô gặp các xe cộ khác đi ngược đường phải tắt đèn pha để đi đèn cốt”.

Điều 21 mới. – “Vượt - Muốn vượt xe phải báo hiệu bằng còi. Ban đêm trong các thành phố, có thể báo hiệu bằng cách nhấp nháy đèn pha. Xe đi trước nghe thấy còi hay thấy hiệu đèn đòi vượt phải để cho xe sau vượt nếu không có gì trở ngại và nguy hiểm.

Nếu có thể cho vượt được, xe đi trước từ từ lái sang bên phải và phải ra hiệu (tay đưa ngang) cho xe sau vượt. Trong khi xe sau đang vượt, xe trước vẫn phải đi sát lề bên phải và tuyệt đối không được tăng tốc độ.

Nếu không thể để cho vượt vì phía trước có chướng ngại vật hay xe cộ đi lại hoặc vì bất cứ lý do gì khác thì xe đi trước phải ra hiệu cho xe sau biết (tay đưa xuống theo chiều dọc).

Xe đi sau chỉ được vượt khi đã thấy xe trước ra hiệu cho vượt nhưng phải chắc chắn phía trước không có chướng ngại  vật hay xe đi lại. Khi đã vượt được rồi, người lái xe phải từ từ  lái sang bên phải sau khi biết chắc chắn không nguy hiểm cho xe vừa bị vượt.

Tuyệt đối cấm xe vượt ở ngã ba, ngã tư đường ở đầu dốc, chỗ đường cong, hẹp, nguy hiểm, ở trên cầu (trừ cầu có chỗ dành riêng để vượt) và những khi không trông thấy rõ đường  vì có sương mù hay mưa to.

Trái với điều 3, khi vượt xe điện đi ở giữa đường thì vượt bên phải. Nếu xe đang đỗ, có người lên xuống thì không được vượt.”.

Điều 32 mới. – “Trọng tải - Xếp hàng - Đối với  xe trâu, xe bò, xe ngựa kể cả các xe bề rộng của bánh không đủ 6cm và được phép sử dụng cho tới khi hỏng bánh, hàng hóa xếp trên xe không được quá tiêu chuẩn 60kg/1cm quy định ở điều 8 trên.

Xe xích lô chở hàng hóa không được chở nặng quá 150kg. Nếu chở người chỉ được chở nhiều nhất là 2 người lớn. Trường hợp chở cả người và hàng hóa thì mức tối đa là 1 người lớn + 100kg hàng.

Hàng hóa không được xếp chờm ra ngoài thùng xe và phải chằng buộc cẩn thận để tránh rơi vãi trong khi đi đường. Xe trâu, xe bò, xe ngựa không được xếp hàng dài quá 10m và cao quá 2m tính từ mặt đất.”.

Điều 41 mới. – “Tai nạn. Xe cộ vi phạm luật lệ giao thông gây ra tai nạn thì người lái xe và chủ xe đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại theo dân luật chung.

Mỗi khi xảy ra tai nạn, xe cộ phải để nguyên ở hiện trường, người lái xe dù vô sự cũng phải có mặt tại chỗ để chờ nhân viên có thẩm quyền đến lập biên bản.

Xe ô tô qua nơi xảy ra tai nạn có người bị thương cần phải cấp cứu có nhiệm vụ chở người bị thương đến trạm cấp cứu hay bệnh viện gần nhất trừ những xe chữa cháy, xe hộ đê, xe của các cơ quan Quân sự, Công an trong trường hợp các xe đó đang có nhiệm vụ khẩn cấp. Người trốn tránh nhiệm vụ tải thương sẽ bị xử phạt theo hình luật chung.

Xe chở hàng hóa và xe chở hành khách, bất luận là xe dùng riêng hay xe kinh doanh vận tải, dù đã đủ số hành khách được phép chở hay đã xếp  hàng đến mức tối đa ấn định cũng không được từ chối chở người bị thương. Trong trường hợp này xe được chở thêm 1/10 số  hành khách được phép chở hoặc 1/20 trọng tải tối đa của xe mà không coi là vi phạm điều 13 và điều 32 trên. Nếu số người bị thương nhiều, trọng lượng tổng cộng quá mức 1/10 xe được chở thêm (mỗi người tính 50kg) thì một số hành khách phải xuống xe hay một số hàng hóa phải dỡ xuống để đảm bảo xe chở được hết số người bị thương mà không vượt mức được chở thêm”.

Điều 4. Các ông Chánh văn phòng Bộ Giao thông và Bưu điện và Giám đốc Nha Giao thông, Ủy ban hành chính  các khu, tỉnh và thành phố có nhiệm vụ thi hành Nghị định này.

 

 

KT. BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN
THỨ TRƯỞNG



 
Nguyễn Hữu Mai

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 44-NĐ

Loại văn bảnNghị định
Số hiệu44-NĐ
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành...
Ngày hiệu lực...
Ngày công báo...
Số công báoSố 22
Lĩnh vựcGiao thông - Vận tải
Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
Cập nhật5 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Lược đồ Nghị định 44-NĐ Sửa đổi Luật đi đường bộ Nghị định 48-NĐ ngày 03-12-1955


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

Văn bản liên quan ngôn ngữ

    Văn bản sửa đổi, bổ sung

      Văn bản bị đính chính

        Văn bản được hướng dẫn

          Văn bản đính chính

            Văn bản bị thay thế

              Văn bản hiện thời

              Nghị định 44-NĐ Sửa đổi Luật đi đường bộ Nghị định 48-NĐ ngày 03-12-1955
              Loại văn bảnNghị định
              Số hiệu44-NĐ
              Cơ quan ban hànhBộ Giao thông và Bưu điện
              Người kýNguyễn Hữu Mai
              Ngày ban hành...
              Ngày hiệu lực...
              Ngày công báo...
              Số công báoSố 22
              Lĩnh vựcGiao thông - Vận tải
              Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
              Cập nhật5 năm trước

              Văn bản thay thế

                Văn bản được dẫn chiếu

                  Văn bản được hợp nhất

                    Văn bản được căn cứ

                      Văn bản hợp nhất

                        Văn bản gốc Nghị định 44-NĐ Sửa đổi Luật đi đường bộ Nghị định 48-NĐ ngày 03-12-1955

                        Lịch sử hiệu lực Nghị định 44-NĐ Sửa đổi Luật đi đường bộ Nghị định 48-NĐ ngày 03-12-1955