Nghị quyết 31-NQ/TW

Nghị quyết 31-NQ/TW năm 2009 về nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng do Ban Chấp hành Trung ương ban hành

Nội dung toàn văn Nghị quyết 31-NQ/TW 2009 nhiệm vụ giải pháp thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X Đảng


BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------

Số: 31-NQ/TW

Hà Nội ngày 02 tháng 02 năm 2009

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP LỚN NHẰM TIẾP TỤC THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI TOÀN QUỐC LẦN THỨ X CỦA ĐẢNG

HỘI NGHỊ LẦN THỨ 9 BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHÓA X

I- Tình hình và kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội X trong nửa đầu nhiệm kỳ (2006 - 2008)

Từ sau Đại hội X của Đảng, tình hình thế giới và khu vực thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp. Cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ; hòa bình, hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố quốc tế, bất ổn chính trị - xã hội, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ giữa một số nước tiếp tục diễn biến phức tạp. Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng năng lượng, ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trở thành những vấn đề nghiêm trọng trên quy mô toàn cầu.

Từ cuối năm 2007, nền kinh tế Mỹ lâm vào khủng hoảng tài chính nặng nề, lan rộng ra nhiều nước, gây ra suy thoái kinh tế thế giới. Ở trong nước, sau 2 năm 2006, 2007 phát triển thuận lợi, từ cuối năm 2007 và năm 2008 kinh tế gặp nhiều khó khăn, một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô mất cân đối, đầu năm lạm phát cao, cuối năm suy giảm kinh tế; thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra; các thế lực thù địch tiếp tục chống phá và can thiệp vào công việc nội bộ nước ta, kích động bạo loạn, lật đổ và đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến” trong nội bộ ta. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã đoàn kết, tích cực quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội X đạt được những thành tựu quan trọng.

1- Kinh tế cơ bản ổn định và duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao; năng lực sản xuất và quy mô tổng sản phẩm trong nước tăng lên, kết cấu hạ tầng tiếp tục được cải thiện. Huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển, nhất là từ khu vực kinh tế ngoài nhà nước, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt cao. Các thành phần kinh tế đều có bước phát triển. Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được sắp xếp, đổi mới, cổ phần hoá, kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập một số tập đoàn kinh tế nhà nước ở các lĩnh vực then chốt, từng bước nâng cao hiệu quả, là công cụ quan trọng của Nhà nước điều tiết nền kinh tế, củng cố một bước vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Giáo dục - đào tạo được quan tâm nhiều hơn và đạt được một số tiến bộ. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ có đóng góp ngày càng tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm, mức độ hưởng thụ các dịch vụ y tế của người dân tăng lên. Văn hoá, thông tin, thể thao tiếp tục phát triển. Giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách đối với người có công với nước và các chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực. Công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường được chú trọng nhiều hơn, bước đầu đạt được một số kết quả.

Độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc được bảo vệ vững chắc; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội được phát huy; thế trận lòng dân được củng cố; hoàn thành phân giới, cắm mốc biên giới trên bộ với Trung Quốc. Xây dựng lực lượng vũ trang được đẩy mạnh và đạt được kết quả tích cực. Hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế tiếp tục phát triển; vị thế, uy tín nước ta trên thế giới được nâng cao.

Công tác xây dựng Đảng được tập trung chỉ đạo, đạt được những chuyển biến tích cực. Việc quán triệt, cụ thể hoá, thể chế hoá, triển khai thực hiện nghị quyết có đổi mới. Công tác tư tưởng, lý luận, báo chí, hoạt động văn hoá, văn nghệ tiếp tục được đẩy mạnh, đạt được một số kết quả. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tạo được những chuyển biến quan trọng về nhận thức, ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống và bước đầu “làm theo” trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Lòng tin của đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và triển vọng phát triển đất nước được giữ vững, tư tưởng tích cực vẫn là xu hướng chủ đạo trong đời sống xã hội.

Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai tương đối đồng bộ, mang lại một số kết quả tích cực. Các cơ quan của Đảng, Nhà nước được sắp xếp lại, thu gọn đầu mối; công tác cán bộ có đổi mới trên một số mặt, đã thể chế hoá, cụ thể hóa nhiều chủ trương, giải pháp về cán bộ và công tác cán bộ; quy hoạch và luân chuyển cán bộ được tăng cường. Việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị được coi trọng, đạt được một số kết quả. Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật trong Đảng được tăng cường, chất lượng, hiệu quả được nâng lên, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm của các tổ chức đảng, đảng viên, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị.

Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh; tổ chức bộ máy và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp tiếp tục đổi mới, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên. Cải cách hành chính tiếp tục được thực hiện trên các lĩnh vực. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí được tích cực triển khai thực hiện, đạt được một số kết quả bước đầu. Việc thực hiện dân chủ ở cơ sở được đẩy mạnh, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được bảo đảm tốt hơn.

Các chính sách xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được triển khai rộng rãi, có kết quả. Công tác dân vận được coi trọng. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, chú trọng hướng về cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; tổ chức được nhiều phong trào thi đua yêu nước thiết thực, hiệu quả.

Nhìn một cách tổng quát, trong nửa đầu nhiệm kỳ vừa qua, Nghị quyết Đại hội X đã được triển khai thực hiện đồng bộ, đạt nhiều kết quả tích cực. Công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng được đẩy mạnh, có chuyển biến tích cực. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố, phát huy. Sự nghiệp đổi mới tiếp tục được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực; nền kinh tế cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao, an sinh xã hội được chăm lo nhiều hơn. Hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước được nâng lên. Độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, ổn định chính trị - xã hội được giữ vững. Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Đã đạt hoặc gần đạt được nhiều chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra.

2- Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn thấp so với khả năng, tiềm lực của đất nước. Ổn định kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc, còn tiềm ẩn các yếu tố mất ổn định. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, chậm cải thiện; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Huy động và sử dụng các nguồn nội lực và ngoại lực vào phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế, hiệu quả còn thấp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2008 chậm lại. Chưa thu hẹp được khoảng cách phát triển so với các nước trong khu vực.

Đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể còn nhiều hạn chế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh nhưng cơ cấu đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu, còn ít các dự án có công nghệ tiên tiến. Những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường chậm được tăng cường. Việc xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế; quản lý, điều hành nền kinh tế có lúc còn lúng túng, bị động.

Giáo dục - đào tạo còn nhiều hạn chế, có mặt yếu kém kéo dài, gây bức xúc xã hội nhưng chậm được khắc phục. Đầu tư cho khoa học - công nghệ còn thấp, đổi mới cơ chế, chính sách quản lý và phát triển khoa học - công nghệ còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu phát triển đất nước. Chất lượng công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là ở cơ sở còn thấp; bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm còn bị coi nhẹ.

Sự phát triển và chất lượng các hoạt động văn hoá, thông tin, thể thao còn nhiều mặt yếu kém kéo dài. Chính sách tiền lương, thu nhập chưa hợp lý, chậm được sửa đổi; quản lý nhà nước về lao động còn lỏng lẻo; chấp hành luật pháp về lao động của một số chủ doanh nghiệp chưa nghiêm; cuộc sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, mức sống của một bộ phận nhân dân bị giảm sút. Một số vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết. Quản lý tài nguyên, môi trường lỏng lẻo; tình trạng khai thác tài nguyên và cơ sở sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường diễn ra phổ biến, một số trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng.

Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới còn hạn chế. Việc kết hợp giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng và an ninh có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Công tác bảo vệ an ninh trên một số lĩnh vực còn sơ hở, tiềm ẩn những yếu tố phức tạp. Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại còn hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu. Sự phối hợp hoạt động đối ngoại trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, an ninh có lúc, có nơi chưa nhịp nhàng, đồng bộ.

Trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X, các vấn đề văn hoá, giáo dục - đào tạo chưa được quan tâm đúng mức. Việc cụ thể hoá, thể chế hóa Nghị quyết trên một số lĩnh vực còn chậm, nên một số nghị quyết chậm đi vào cuộc sống. Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, chưa nắm chắc tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là những việc mới phát sinh để kịp thời xử lý.

Chỉ đạo, quản lý và hoạt động của báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ còn nhiều hạn chế, yếu kém, việc khắc phục còn chậm. Một số mặt tiêu cực về tư tưởng có biểu hiện phức tạp và nghiêm trọng hơn, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị - xã hội. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu chưa được ngăn chặn, đẩy lùi; sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng trong xã hội; sự yếu kém, làm chưa hết trách nhiệm trong quản lý của nhiều cấp, nhiều ngành, trên nhiều lĩnh vực... làm tăng thêm bức xúc trong nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Việc sắp xếp tổ chức bộ máy vừa qua giảm được đầu mối nhưng chưa đạt mục tiêu tinh gọn, hiệu quả. Nhiều hạn chế, yếu kém trong công tác cán bộ, chính sách cán bộ chậm được khắc phục. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng, nhất là ở cơ sở còn nhiều mặt yếu, thậm chí một số tổ chức cơ sở đảng mất sức chiến đấu, không thể hiện được vai trò lãnh đạo. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng chưa theo kịp yêu cầu của thời kỳ mới. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật trong Đảng trên một số mặt còn hạn chế, thiếu sót.

Tình hình vi phạm Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước còn diễn ra ở nhiều nơi. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt còn lúng túng. Kết quả cải cách hành chính, cải cách tư pháp đạt được còn hạn chế. Nhiều nội dung trong chính sách xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được thực hiện đầy đủ. Công tác dân vận, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội đổi mới chậm. Một số chỉ tiêu quan trọng của Đại hội đạt được còn thấp, đòi hỏi trong thời gian tới phải có sự nỗ lực phấn đấu rất cao mới có thể hoàn thành được.

Nguyên nhân của những mặt hạn chế, yếu kém nói trên có phần do tác động khách quan của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế trên thế giới, tình hình thiên tai, dịch bệnh... Đồng thời do công tác nghiên cứu lý luận chưa giải đáp có căn cứ khoa học về nhiều vấn đề quan trọng do thực tiễn đặt ra; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành một số lĩnh vực chưa tập trung, kiên quyết, dự báo chưa tốt; việc tổ chức thực hiện nghị quyết của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương vẫn là khâu yếu, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; những yếu kém về phẩm chất, năng lực, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, đảng viên chậm được khắc phục...

3- Từ thực tiễn thực hiện Nghị quyết Đại hội X trong nửa đầu nhiệm kỳ đã mang lại nhiều kinh nghiệm. Trong bối cảnh tình hình chính trị và kinh tế thế giới diễn biến hết sức phức tạp, để đất nước phát triển ổn định, bền vững, đòi hỏi phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao chất lượng công tác dự báo, quy hoạch, kế hoạch, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội; phải phát huy cao nội lực có ý nghĩa quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực có ý nghĩa quan trọng, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, công nghiệp hoá, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, quan tâm bảo vệ môi trường, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội; phải tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Phát huy những thành tựu và kinh nghiệm, khắc phục những yếu kém và khuyết điểm trên đây có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, tạo đà phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong những năm tiếp theo.

II- Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp từ nay đến Đại hội XI của Đảng

Từ nay đến hết nhiệm kỳ Đại hội X, tình hình khu vực và thế giới còn diễn biến phức tạp, khó lường. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế ở nhiều nước trên thế giới thời gian tới còn diễn biến phức tạp; sự suy giảm vai trò của Mỹ và xu hướng hình thành thế giới đa cực ngày càng rõ sẽ tác động, ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị và kinh tế thế giới trong những năm tới.

Cùng với tăng cường hợp tác trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu, thỏa hiệp trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích của các nước lớn, xu thế cạnh tranh giữa các nước để mở rộng phạm vi ảnh hưởng, tìm kiếm các nguồn nguyên liệu, năng lượng, thu hút vốn đầu tư, thị trường tiêu thụ sẽ gay gắt hơn. Cạnh tranh giữa các nước lớn trên các địa bàn chiến lược sẽ phức tạp hơn. Tình hình đó sẽ tác động nhiều mặt tới nước ta.

Ở trong nước, bên cạnh mặt thuận lợi là tình hình chính trị - xã hội ổn định, lạm phát bước đầu được kiềm chế, kinh tế vĩ mô dần ổn định, an sinh xã hội được quan tâm giải quyết, củng cố lòng tin của nhân dân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, dự báo tình hình năm 2009 và một vài năm tới có thể sẽ còn khó khăn hơn năm 2008; những khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư, du lịch sẽ ảnh hưởng xấu tới sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, thu ngân sách nhà nước, việc làm và đời sống của nhân dân.

Thiên tai, dịch bệnh, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu tiếp tục diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước, sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta quyết liệt hơn. Sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, những hạn chế, yếu kém trên một số lĩnh vực kinh tế, xã hội... gây khó khăn cho sự ổn định và phát triển đất nước.

Để thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, hoàn thành kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, tạo thuận lợi cho bước phát triển nhanh và bền vững trong những năm tiếp theo, trong nửa nhiệm kỳ còn lại của Đại hội X, toàn Đảng, toàn dân ta phải có quyết tâm chính trị cao để thực hiện thật tốt những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:

Mục tiêu

Nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội X đã đề ra cho cả nhiệm kỳ, cụ thể là: Chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường hợp tác và chủ động hội nhập quốc tế đạt hiệu quả ngày càng cao. Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.

Tạo chuyển biến rõ rệt hơn nữa trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết, thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, phương thức lãnh đạo khoa học, đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Đẩy mạnh cải cách hành chính; phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; đẩy mạnh thi đua yêu nước, phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương, củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Nhiệm vụ và giải pháp

Tiếp tục thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp lớn đã được Nghị quyết Đại hội X của Đảng, các nghị quyết Trung ương, kết luận của Bộ Chính trị (khóa X) đề ra, trong đó, tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau đây:

1- Trong lĩnh vực kinh tế

Triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững. Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác dự báo, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, chính sách lãi suất và tỉ giá hợp lý, để vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, phòng ngừa lạm phát, vừa đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế phát triển, nhất là những lĩnh vực ưu tiên, sản xuất kinh doanh có thị trường, có hiệu quả; chủ động xử lý nợ xấu và ngăn ngừa nợ xấu phát sinh trong hệ thống ngân hàng thương mại, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng và cán cân thanh toán quốc tế.

Thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên chặt chẽ hơn; rà soát, loại bỏ các dự án đầu tư kém hiệu quả, dãn tiến độ dự án không cấp bách, tập trung vốn hoàn thành các công trình trọng điểm quốc gia; bố trí đủ vốn cho các chương trình, dự án cần thiết được xác định trong các nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội. Bố trí và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư kích cầu trong nước vào những lĩnh vực có hiệu quả, chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, điều hành linh hoạt chính sách thuế để hỗ trợ doanh nghiệp và kiểm soát nhập siêu; kiểm soát chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài. Tiếp tục thực hiện chủ trương xóa bao cấp qua giá với lộ trình hợp lý. Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, đáp ứng đầy đủ các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống. Đẩy mạnh xuất khẩu, quản lý chặt chẽ nhập khẩu, hạn chế tối đa nhập siêu, coi trọng đúng mức thị trường trong nước.

Cải thiện môi trường đầu tư và sản xuất, kinh doanh, phát triển các thành phần kinh tế, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Thực hiện nhất quán chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu và các luật có liên quan; đơn giản hơn nữa các thủ tục hành chính, công khai mọi quy trình, thủ tục cấp phép hoạt động, đăng ký kinh doanh, đầu tư, nộp thuế...

Điều chỉnh, bổ sung, nâng cao chất lượng quy hoạch phát triển các ngành, vùng, các sản phẩm lớn, quan trọng và công khai hóa quy hoạch, chính sách để mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khuyến khích đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nông nghiệp, nông thôn, các ngành có hàm lượng khoa học - công nghệ cao; khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, sức cạnh tranh của sản phẩm.

Ban hành chính sách phù hợp để giải quyết vướng mắc kéo dài trong thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư. Có chính sách để các vùng của đất nước đều phát huy tốt nhất lợi thế của mỗi vùng, cùng phát triển nhanh hơn; phát huy tốt vai trò các vùng kinh tế động lực với việc quan tâm đầu tư phát triển các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đi đôi với tăng cường đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể để làm tốt vai trò chủ đạo và nền tảng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư của các thành phần kinh tế; tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư. Tập trung vốn đầu tư nhà nước vào những lĩnh vực ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các chương trình, dự án phát triển các ngành, các vùng trọng điểm, các vùng đặc biệt khó khăn. Đổi mới cơ chế tài chính theo hướng khuyến khích xã hội hoá, huy động nhiều nguồn lực phát triển các lĩnh vực dịch vụ công.

Quản lý chặt chẽ vốn đầu tư từ ngân sách và việc sử dụng vốn của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên đất, nước, khoáng sản, rừng, biển, bảo vệ môi trường sinh thái. Sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai, cơ chế đăng ký, chuyển dịch quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, phát triển thị trường đất đai, bất động sản, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực này cho phát triển đất nước.

Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về những chủ trương, chính sách lớn khi Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Nghị quyết Trung ương 7 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tăng cường, củng cố những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.

2- Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và văn hoá, y tế, xã hội

Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo toàn diện, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiến hành cải cách giáo dục theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X). Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục và công tác quản lý giáo dục; khắc phục tình trạng mất cân đối trong cơ cấu giáo dục - đào tạo; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng cả nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, đào tạo nhân tài, cả dạy chữ, dạy nghề, dạy làm người, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, nhân cách, phẩm chất đạo đức, lối sống.

Tăng cường đầu tư của nhà nước, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa việc huy động các nguồn lực cho phát triển giáo dục - đào tạo; đấu tranh khắc phục, đẩy lùi các tiêu cực kéo dài trong giáo dục - đào tạo. Đẩy mạnh đào tạo nghề, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Định hướng, quản lý chặt chẽ việc hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo; xây dựng nền giáo dục tiên tiến, dân tộc, độc lập, xã hội chủ nghĩa.

Tiếp tục đổi mới đồng bộ cơ chế quản lý và chính sách phát triển khoa học - công nghệ; nghiên cứu xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học - công nghệ quốc gia và các ngành, các sản phẩm quan trọng. Đổi mới cơ chế tài chính, nâng cao tính tự chủ cho các cơ quan nghiên cứu khoa học. Tiếp tục phát huy dân chủ trong nghiên cứu khoa học. Phát triển thị trường khoa học - công nghệ. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học; gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh, giáo dục - đào tạo. Có chính sách, chế độ đãi ngộ và điều kiện làm việc tốt hơn cho cán bộ nghiên cứu khoa học, nhất là cán bộ đầu ngành, có trình độ cao.

Thực hiện tốt nhiệm vụ tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Thực hiện các chính sách khuyến khích tạo việc làm; mở rộng các hình thức dạy nghề, hỗ trợ cho vay dạy nghề, học nghề, nhất là với người bị thu hồi đất, không còn đất sản xuất, lao động dôi dư do suy giảm kinh tế.

Đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Xây dựng quan hệ lao động lành mạnh, bảo đảm vệ sinh, an toàn lao động trong các loại hình doanh nghiệp; Nhà nước đầu tư và có chính sách khuyến khích doanh nghiệp xây dựng nhà ở, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cho người lao động có thu nhập thấp. Tiếp tục thực hiện các chính sách, chương trình xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ các gia đình chính sách, người lao động mất việc làm, người dân vùng khó khăn, vùng bị thiên tai, đồng bào dân tộc thiểu số; tập trung xóa đói, giảm nghèo ở các địa phương có tỉ lệ hộ nghèo cao.

Phát triển và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách quản lý, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh từ tuyến cơ sở đến trung ương. Tăng cường đầu tư của Nhà nước, đồng thời xã hội hóa một cách phù hợp để huy động các nguồn lực xã hội vào phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đào tạo đủ về số lượng và nâng cao y đức, trình độ cán bộ y tế, đấu tranh đẩy lùi các tiêu cực trong khám, chữa bệnh. Quản lý chặt chẽ các hoạt động khám chữa bệnh tư nhân, thị trường thuốc chữa bệnh, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; phòng, chống dịch bệnh, nghiện ma túy, nhiễm HIV... Đổi mới, hoàn thiện chế độ bảo hiểm y tế. Thực hiện tốt chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, phấn đấu đạt chỉ tiêu giảm sinh và ngăn ngừa mất cân bằng giới tính.

Phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao. Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện chiến lược văn hoá, thông tin; phát triển văn hóa gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội. Tăng đầu tư của Nhà nước cho văn hóa; xã hội hóa ở các lĩnh vực phù hợp để huy động các nguồn lực cho phát triển văn hoá. Quản lý chặt chẽ các hoạt động văn hoá, vui chơi giải trí, lễ hội.

Phát triển mạnh mẽ thể dục, thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao. Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Làm tốt công tác bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc. Khuyến khích sáng tạo các tác phẩm văn hoá, văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng, nghệ thuật cao. Tăng cường lãnh đạo, quản lý, nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản, uốn nắn, xử lý kịp thời các lệch lạc, sai phạm. Đẩy mạnh thông tin đối ngoại, chống sự xâm nhập các sản phẩm độc hại, phản văn hoá, phản động, gây phương hại tư tưởng, đạo đức xã hội.

3- Trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên, môi trường

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về tài nguyên và môi trường, có các chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa, kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, các chương trình, dự án đầu tư. Tăng cường công tác điều tra cơ bản, bao gồm cả tài nguyên và môi trường biển; sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả cao các nguồn tài nguyên, đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững.

Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường; xây dựng và thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về bảo vệ môi trường, chương trình phòng chống ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu; giải quyết triệt để các “điểm đen”, “điểm nóng” về môi trường; chủ động triển khai các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu; có biện pháp tích cực hạn chế thiệt hại ở những vùng thường xảy ra thiên tai.

4- Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại

Về quốc phòng: Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm về nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Chăm lo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong các chiến lược, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội. Kết hợp chặt chẽ quốc phòng với kinh tế, an ninh, đối ngoại.

Tiếp tục làm tốt nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X), tăng cường tiềm lực quốc phòng, củng cố “thế trận lòng dân”; xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao, đối phó kịp thời, thắng lợi mọi tình huống, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Về an ninh: Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân về những thách thức lớn đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới. Chủ động phát hiện, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ.

Tăng cường công tác bảo vệ Đảng và bảo vệ an ninh chính trị nội bộ; chống âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, củng cố phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tiếp tục thực hiện có kết quả các chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm và các tệ nạn xã hội. Xây dựng lực lượng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, tận tụy phục vụ nhân dân.

Về đối ngoại: Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, đưa các mối quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác, phù hợp yêu cầu và lợi ích đất nước ta. Hoàn thành các hiệp định phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc.

Đẩy nhanh tiến độ phân giới, cắm mốc với Lào, Cam-pu-chia theo thời gian đã thỏa thuận và xác định ranh giới thềm lục địa với các nước có liên quan phù hợp Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; kiên quyết đấu tranh góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại. Thực hiện tốt chính sách với người Việt Nam ở nước ngoài. Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

5- Trong lĩnh vực công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và phát huy dân chủ xã hội

Chăm lo công tác tổ chức xây dựng Đảng. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và của cả hệ thống chính trị; đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ, tăng cường dân chủ, nâng cao chất lượng công tác cán bộ; xây dựng các quy chế, quy định cụ thể để quản lý cán bộ và thuận lợi cho việc kịp thời thay thế, miễn nhiệm cán bộ năng lực, phẩm chất kém, không hoàn thành nhiệm vụ, mất uy tín, có sai phạm và phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, đề bạt được cán bộ có đức, có tài, trẻ, cán bộ nữ vào các vị trí phù hợp.

Thực hiện tốt Quy định số 57-QĐ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng; Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; Kết luận của Hội nghị Trung ương 9 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ; tiếp tục cụ thể hóa và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, giải đáp có căn cứ khoa học những vấn đề lớn thực tiễn đất nước đang đặt ra; tập trung vào tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh 1991 và chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XI với chất lượng cao.

Nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, sắc bén, có sức thuyết phục cao của công tác tư tưởng. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước, bồi dưỡng lòng yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, hình thành hệ thống giá trị của con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế.

Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tạo chuyển biến căn bản trong việc ngăn chặn, từng bước đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chủ động phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bác bỏ các luận điệu tuyên truyền phản động, làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng.

Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Cấp ủy và Ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên, tập trung kiểm tra, giám sát những lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm, kiểm tra, giám sát người đứng đầu các cấp, các ngành về năng lực lãnh đạo, quản lý, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách làm việc, tính tiên phong, gương mẫu để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng, lãng phí.

Ủy ban kiểm tra các cấp nâng cao chất lượng tham mưu cho cấp ủy, thực hiện toàn diện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng quy định và các nhiệm vụ do cấp ủy giao, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng vi phạm. Xây dựng chiến lược công tác kiểm tra, giám sát giai đoạn 2015 và định hướng đến năm 2025.

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Quốc hội; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Chính phủ; tiếp tục thực hiện có hiệu quả cải cách tư pháp. Tiếp tục cải tiến, nâng cao chất lượng các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.

Nâng cao chất lượng công tác lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Tăng cường trách nhiệm giám sát, nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn của Quốc hội; giám sát việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, các cam kết của các thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trước Quốc hội và các kết luận giám sát của Quốc hội đối với các ngành, địa phương, đơn vị. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền các cấp.

Tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Thực hiện phân cấp mạnh hơn cho các cơ quan hành chính cấp dưới đi đôi với nâng cao năng lực cán bộ, chất lượng công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch, tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp trên. Lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Tiếp tục triển khai thực hiện toàn diện và có hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính, trước hết là những lĩnh vực đang gây bức xúc xã hội kéo dài.

Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải tiến tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động cơ quan điều tra. Tiếp tục đổi mới tổ chức hệ thống tòa án nhân dân và nâng cao chất lượng xét xử; đổi mới tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; đổi mới, kiện toàn tổ chức, hoạt động của cơ quan thi hành án, các tổ chức bổ trợ tư pháp.

Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tập trung rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách; thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát; phối hợp thật tốt giữa các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát, nhất là khi giải quyết các trường hợp có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí. Kiên quyết xử lý nghiêm kỷ luật về Đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật các vụ việc tham nhũng, tịch thu tài sản tham nhũng. Kiện toàn hệ thống các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham nhũng. Phát huy vai trò của nhân dân, các đoàn thể chính trị - xã hội, của báo chí trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; có chính sách bảo vệ người dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí...

Phát huy dân chủ, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát huy dân chủ; tiếp tục cụ thể hóa bằng pháp luật các quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định; nâng cao chất lượng, hiệu quả việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; tăng cường, nâng cao chất lượng công tác dân vận của Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị.

Đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội theo hướng tập trung cho cơ sở, đa dạng hóa hình thức tập hợp và phát huy tối đa mọi năng lực các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả người Việt Nam ở nước ngoài. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nhất là ở cơ sở.

III- Một số nhiệm vụ quan trọng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện từ nay đến Đại hội XI của Đảng

1- Chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, bảo đảm an sinh xã hội.

2- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bổ sung, phát triển Cương lĩnh; tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2001 - 2010, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng.

3- Tăng cường củng cố, phát triển những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.

4- Tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước.

5- Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường công tác quản lý, chấn chỉnh các vi phạm của báo chí, xuất bản.

6- Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng cán bộ, đảng viên.

7- Đổi mới công tác cán bộ, chuẩn bị tốt nhân sự cho đại hội đảng các cấp, nhân sự Đại hội XI của Đảng.

IV- Tổ chức thực hiện

- Các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt Nghị quyết trong cán bộ, đảng viên, nhân dân và xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết một cách cụ thể, thiết thực, phù hợp với cấp mình, bảo đảm Nghị quyết đi nhanh vào cuộc sống.

- Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới những văn bản pháp luật có liên quan. Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo xây dựng chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết, chỉ đạo các bộ, ngành khẩn trương triển khai thực hiện.

- Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết, tổ chức tốt việc phổ biến, quán triệt và vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân tích cực thực hiện Nghị quyết.

- Văn phòng Trung ương Đảng và các ban của Trung ương Đảng thường xuyên theo dõi, kiểm tra và định kỳ hàng năm báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết.

 

 

TM. BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
TỔNG BÍ THƯ




Nông Đức Mạnh

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 31-NQ/TW

Loại văn bảnNghị quyết
Số hiệu31-NQ/TW
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành02/02/2009
Ngày hiệu lực02/02/2009
Ngày công báo...
Số công báo
Lĩnh vựcBộ máy hành chính, Văn hóa - Xã hội, Thương mại
Tình trạng hiệu lựcCòn hiệu lực
Cập nhật15 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Download Văn bản pháp luật 31-NQ/TW

Lược đồ Nghị quyết 31-NQ/TW 2009 nhiệm vụ giải pháp thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X Đảng


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản sửa đổi, bổ sung

        Văn bản bị đính chính

          Văn bản được hướng dẫn

            Văn bản đính chính

              Văn bản bị thay thế

                Văn bản hiện thời

                Nghị quyết 31-NQ/TW 2009 nhiệm vụ giải pháp thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X Đảng
                Loại văn bảnNghị quyết
                Số hiệu31-NQ/TW
                Cơ quan ban hànhBan Chấp hành Trung ương
                Người kýNông Đức Mạnh
                Ngày ban hành02/02/2009
                Ngày hiệu lực02/02/2009
                Ngày công báo...
                Số công báo
                Lĩnh vựcBộ máy hành chính, Văn hóa - Xã hội, Thương mại
                Tình trạng hiệu lựcCòn hiệu lực
                Cập nhật15 năm trước

                Văn bản thay thế

                  Văn bản được căn cứ

                    Văn bản hợp nhất

                      Văn bản gốc Nghị quyết 31-NQ/TW 2009 nhiệm vụ giải pháp thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X Đảng

                      Lịch sử hiệu lực Nghị quyết 31-NQ/TW 2009 nhiệm vụ giải pháp thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X Đảng

                      • 02/02/2009

                        Văn bản được ban hành

                        Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                      • 02/02/2009

                        Văn bản có hiệu lực

                        Trạng thái: Có hiệu lực