Quyết định 119-CP

Quyết định 119-CP năm 1969 về một số biện pháp bảo đảm thời gian lao động của công nhân, viên chức Nhà nước do Hội đồng Chính phủ ban hành

Nội dung toàn văn Quyết định 119-CP biện pháp bảo đảm thời gian lao động của công nhân, viên chức Nhà nước


HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 119-CP

Hà Nội, ngày 19 tháng 07 năm 1969

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỜI GIAN LAO ĐỘNG CỦA CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC

Thời gian lao động là một vấn đề quan trọng bậc nhất của nội dung tổ chức lao động xã hội chủ nghĩa. Thời gian lao động bao gồm số ngày công trong tháng, trong năm và số giờ công trong ngày làm việc. Tiết kiệm thời gian lao động không chỉ quý trọng từng ngày, từng giờ mà phải quý trọng từng phút, từng giây.

Quản lý chặt chẽ thời gian lao động, quy định đúng đắn và chấp hành nghiêm chỉnh chế độ thời gian lao động và nghỉ ngơi của công nhân; viên chức là nội dung quan trọng của công tác cải tiến tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để nâng cao năng suất lao động.

Từ ngày hoà bình lập lại đến nay, Nhà nước đã ban hành các quy định về thời gian lao động, nghỉ ngơi của công nhân, viên chức, nhằm tạo điều kiện cho công nhân, viên chức phát huy khả năng lao động của mình, cống hiến vào sự nghiệp bảo vệ đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Gần đây, phong trào thi đua đạt ngày công, giờ công cao trong công nhân đang dần dần được mở rộng; công tác cải tiến tổ chức lao động đi đôi với cải tiến tổ chức sản xuất, cải tiến kỹ thuật ở cơ sở, bước đầu được thực hiện trong một số ngành sản xuất và địa phương, đã có tác dụng nâng cao ngày công, giờ công thực tế, góp phần nâng cao năng suất lao động và hoàn thành kế hoạch.

Nhưng nhìn chung, việc sử dụng thời gian lao động của công nhân, viên chức còn lãng phí nghiêm trọng. Do trình độ tổ chức quản lý thấp, nhiều mặt quản lý bị buông lỏng, trong đó việc quản lý thời gian lao động, là khâu yếu nhất, đã gây nên lãng phí sức lao động, số ngày công trong tháng và số giờ công trong ngày còn thấp, năng suất lao động bình quân tăng chậm, thậm chí còn bị giảm sút trong một số ngành.

Để bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật lao động và chế độ thời gian lao động, Hội đồng Chính phủ trong phiên họp thường vụ ngày 03-4-1969 quyết định một số biện pháp cụ thể như sau:

1. Toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức phải chấp hành triệt để điều lệ kỷ luật lao động và các chế độ về thời gian lao động của Nhà nước.

Mỗi người phải bảo đảm làm việc đủ 8 giờ trong 1 ngày, hoặc 48 giờ trong 1 tuần lễ (trừ trường hợp có quy định riêng).

Không ai được rời nơi làm việc của mình trước giờ quy định, mặc dù đã hoàn thành định mức lao động hay công việc được giao. Mỗi khi làm việc hết ca, nếu chưa có người đến nhận ca, cũng không được đóng máy hoặc rời nơi làm việc. Trong trường hợp này, công nhân, viên chức phải báo cáo ngay cho người trực tiếp chỉ huy để giải quyết.

Trong giờ làm việc, không được làm việc riêng, không được làm các công tác xã hội khác (trừ những trường hợp đã được quy định trong Luật công đoàn và trong quyết định số 118-CP ngày 17-12-1963 của Hội đồng Chính phủ quy định việc hội họp, học tập của cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước).

2. Để bảo đảm 8 giờ làm việc trong ngày, từ nay trở đi, những hoạt động sau đây của công nhân, viên chức không được thực hiện trong giờ làm việc:

- Hoạt động thể dục, thể thao,

- Hoạt động văn nghệ, văn hóa quần chúng…

3. Bộ Lao động cùng các ngành liên quan có trách nhiệm nghiên cứu sửa đổi lại các chế độ sau đây được sử dụng hợp lý một số thời gian lao động cần thiết và trình Chính phủ ban hành:

- Chế độ khám bệnh và cho nghỉ,

- Chế độ nghỉ giải lao trong giờ làm việc cho một số ngành nghề nhất định,

- Chế độ học tập tại chức,

- Chế độ luyện tập quân sự của các đội tự vệ xí nghiệp, cơ quan.

- Chế độ tổ chức ca làm việc trong ngày cho hợp lý, không nhất thiết xí nghiệp nào cũng làm việc 3 ca; tùy điều kiện và yêu cầu cụ thể của từng loại xí nghiệp mà tổ chức làm việc 2 hoặc 3 ca để bảo đảm năng suất lao động cao và hiệu quả kinh tế tốt nhất.

4. Nghiêm cấm cán bộ phụ trách các cấp ở xí nghiệp hoặc cơ quan từ tổ trưởng sản xuất hoặc tổ trưởng công tác đến thủ trưởng đơn vị, không được cho công nhân, viên chức nghỉ việc trái với quy định của Nhà nước.

Xí nghiệp, cơ quan phải có nội quy bảo đảm chặt chẽ kỷ luật lao động và thời gian lao động, nội quy này phải được niêm yết rõ ở những nơi công nhân, viên chức qua lại thường xuyên. Phải bảo đảm các điều kiện để chứng minh sự có mặt của công nhân, viên chức tại nơi làm việc (quy định cổng ra vào, thực hiện chế độ treo thẻ, lật thẻ, củng cố chế độ chấm công, ghi chép ban đầu về lao động, tiền lương…).

Đối với cán bộ, công nhân, viên chức vi phạm những quy định về thời gian lao động, nếu qua giáo dục mà vẫn phạm lại, thì phải kiên quyết thi hành kỷ luật như điều lệ về kỷ luật lao động đã quy định.

5. Để tạo điều kiện cho công nhân, viên chức chấp hành tốt những quy định về thời gian lao động của Nhà nước, thủ trưởng các xí nghiệp, cơ quan phải thường xuyên chăm lo cải tiến tổ chức lao động đi đôi với cải tiến tổ chức sản xuất, cải tiến kỹ thuật. Phải tổ chức phục vụ tốt nơi làm việc, tổ chức chỉ đạo tốt các ca làm việc, nhất là ca đêm. Phải tăng cường công tác định mức lao động, thông qua công tác định mức mà quy định cụ thể các loại thì giờ làm việc và nghỉ ngơi cần thiết trong ca, đồng thời thực hiện trả lương hợp lý để khuyến khích công nhân, viên chức sử dụng triệt để và hợp lý thời gian lao động.

Thủ trưởng các xí nghiệp, cơ quan phải phối hợp chặt chẽ với công đoàn và đoàn thanh niên lao động để giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao tinh thần làm chủ tập thể và ý thức trách nhiệm của công nhân, viên chức đối với sản xuất, công tác, không ngừng củng cố kỷ luật lao động, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước để không ngừng tăng năng suất lao động.

6. Để bảo đảm thời gian lao động, nâng cao ngày công, giờ công thực tế, các ngành, các cấp phải rất coi trọng việc chăm lo đời sống vật chất, văn hóa và cải thiện điều kiện làm việc của công nhân, viên chức. Phải tổ chức tốt việc ăn, ở, đi lại làm việc, tổ chức gửi trẻ cho công nhân, viên chức.

Các cơ quan thương nghiệp, lương thực, vận tải phải có hình thức tổ chức phục vụ thích hợp với điều kiện lao động sản xuất và công tác của công nhân, viên chức ở từng nơi, tạo cho họ những điều kiện thuận lợi nhất trong việc mua hàng (nhất là lương thực, thực phẩm, chất đốt) và đi lại.

Các cơ quan y tế phải nghiên cứu cải tiến việc khám bệnh và bố trí lại mạng lưới y tế phục vụ sản xuất tốt hơn. Y tế các xí nghiệp, cơ quan phải xuống tận các nơi làm việc của công nhân, viên chức để hướng dẫn công tác vệ sinh, phòng bệnh.

7. Thủ trưởng các ngành, các cấp phải tôn trọng và chấp hành triệt để điều lệ về kỷ luật lao động và chế độ thời gian lao động của Nhà nước. Những quy định của các ngành, các cấp trái với quyết định này đều phải huỷ bỏ. Trước mắt, các ngành , các cấp phải tổ chức kiểm tra tình hình sử dụng thời gian lao động tại các cơ sở, sửa chữa ngay những hiện tượng thi hành tùy tiện đã xảy ra, đồng thời tăng cường giáo dục công nhân, viên chức chấp hành triệt để kỷ luật lao động, chống mọi hiện tượng lãng phí như đi muộn về sớm, để giờ chết trong thời gian lao động.

Các ngành, các cấp có thể có những quy định cụ thể về thời gian lao động như tổ chức ca làm việc, bố trí giờ bán hàng… cho phù hợp với yêu cầu và đặc điểm của mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi đơn vị cơ sở, nhưng phải bảo đảm sử dụng triệt để và hợp lý thời gian lao động và không trái với những quy định chung của Nhà nước. Trường hợp thấy cần thiết giảm bớt thời gian lao động cho những ngành, nghề có điều kiện lao động đặc biệt nặng nhọc, độc hại thì phải đề nghị với Bộ Lao động nghiên cứu, trình Chính phủ phê duyệt mới được thi hành.

8. Bộ Lao động có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện quyết định này và quản lý chặt chẽ thời gian lao động. Cơ quan lao động các cấp phải tăng cường kiểm tra thường xuyên việc chấp hành các quy định của Nhà nước về thời gian lao động. Đồng thời ngăn ngừa hiện tượng họp liên miên ảnh hưởng đến thì giờ nghỉ ngơi và sức khoẻ của cán bộ, công nhân, viên chức.

Hàng qúy, Bộ Lao động phải phối hợp với Tổng cục Thống kê báo cáo rõ về tình hình chấp hành kỷ luật lao động và chế độ thời gian lao động của các ngành, các cấp lên Hội đồng Chính phủ, phân tích nguyên nhân gây nên lãng phí thời gian lao động và đề nghị biện pháp khắc phục.

Toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức, với tinh thần cách mạng tiến công, với ý thức trách nhiệm cao của người làm chủ tập thể, hãy ra sức thi đua nâng cao ngày công, giờ công thực tế, thi hành nghiêm chỉnh kỷ luật lao động và chế độ thời gian lao động và nghỉ ngơi của nhà nước, nhằm không ngừng tăng năng suất lao động, đóng góp phần xứng đáng nhất vào công cuộc đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

 

 

 

TM. HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG




Lê Thanh Nghị

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 119-CP

Loại văn bảnQuyết định
Số hiệu119-CP
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành19/07/1969
Ngày hiệu lực03/08/1969
Ngày công báo31/07/1969
Số công báoSố 10
Lĩnh vựcBộ máy hành chính, Lao động - Tiền lương
Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
Cập nhật18 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Lược đồ Quyết định 119-CP biện pháp bảo đảm thời gian lao động của công nhân, viên chức Nhà nước


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản sửa đổi, bổ sung

        Văn bản bị đính chính

          Văn bản được hướng dẫn

            Văn bản đính chính

              Văn bản bị thay thế

                Văn bản hiện thời

                Quyết định 119-CP biện pháp bảo đảm thời gian lao động của công nhân, viên chức Nhà nước
                Loại văn bảnQuyết định
                Số hiệu119-CP
                Cơ quan ban hànhHội đồng Chính phủ
                Người kýLê Thanh Nghị
                Ngày ban hành19/07/1969
                Ngày hiệu lực03/08/1969
                Ngày công báo31/07/1969
                Số công báoSố 10
                Lĩnh vựcBộ máy hành chính, Lao động - Tiền lương
                Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
                Cập nhật18 năm trước

                Văn bản thay thế

                  Văn bản được căn cứ

                    Văn bản hợp nhất

                      Văn bản gốc Quyết định 119-CP biện pháp bảo đảm thời gian lao động của công nhân, viên chức Nhà nước

                      Lịch sử hiệu lực Quyết định 119-CP biện pháp bảo đảm thời gian lao động của công nhân, viên chức Nhà nước

                      • 19/07/1969

                        Văn bản được ban hành

                        Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                      • 31/07/1969

                        Văn bản được đăng công báo

                        Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                      • 03/08/1969

                        Văn bản có hiệu lực

                        Trạng thái: Có hiệu lực