Quyết định 3868/2010/QĐ-UBND

Quyết định 3868/2010/QĐ-UBND về Quy ước mẫu của thôn, bản, tổ dân phố trên địa bàn tỉnh Hà Giang do Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang ban hành

Quyết định 3868/2010/QĐ-UBND Quy ước mẫu thôn, bản, tổ dân phố đã được thay thế bởi Quyết định 04/2020/QĐ-UBND bãi bỏ Quyết định 3868/2010/QĐ-UBND tỉnh Hà Giang và được áp dụng kể từ ngày 01/03/2020.

Nội dung toàn văn Quyết định 3868/2010/QĐ-UBND Quy ước mẫu thôn, bản, tổ dân phố


ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH HÀ GIANG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 3868/2010/QĐ-UBND

Hà Giang, ngày 07 tháng 12 năm 2010

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC BAN HÀNH QUY ƯỚC MẪU CỦA THÔN, BẢN, TỔ DÂN PHỐ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG

Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg ngày 19 tháng 6 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện Hương ước, Quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư;
Căn cứ Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTWMTTQ VN ngày 31 tháng 3 năm 2000 của Liên Bộ Tư Pháp - Bộ Văn hoá Thông tin - Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về việc hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện Hương ước, Quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư;
Căn cứ Thông tư liên tịch số 04/2001/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTWMTTQ VN-UBQGDS-KHHGĐ ngày 9 tháng 7 năm 2001 của Bộ Tư pháp - Bộ Văn hoá Thông tin - Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Uỷ ban Quốc gia dân số - Kế hoạch hoá gia đình hướng dẫn bổ sung Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT/BTP-BVHTT-BTTUBTWMTTQVN xây dựng và thực hiện Hương ước, Quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư về việc thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình;
Căn cứ Thông tư số 70/2007/TT-BNN ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về việc hướng dẫn xây dựng và tổ chức thực hiện Quy ước Bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn;
Theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư Pháp, tại Tờ trình số 621/TTr-STP ngày 21 tháng 9 năm 2010,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này bản Quy ước mẫu của thôn, bản, tổ dân phố trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

Điều 2. Căn cứ Quy ước mẫu này, Ủy ban nhân dân huyện, thành phố chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các xã, phường, thị trấn tổ chức rà soát lại các Quy ước của thôn, bản, tổ dân phố đã ban hành, nếu Quy ước nào chưa đảm bảo về nội dung, chưa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ dân trí của thôn, bản, tổ dân phố hoặc có nội dung trái pháp luật thì phải sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành một Quy ước mới trên cơ sở căn cứ vào bản Quy ước mẫu này.

Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày kể từ ngày ký.  

Điều 4. Chánh Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, Giám đốc các Sở: Tư pháp, Văn hoá - Thể thao và Du lịch, Tài nguyên và Môi trường, Lao động Thương binh và Xã hội, Công an tỉnh, Chi cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình tỉnh; Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố căn cứ Quyết định thi hành./.

 

 

 

TM. UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH
CHỦ TỊCH




Đàm Văn Bông

 

QUY ƯỚC (MẪU)

CỦA THÔN, BẢN HOẶC TỔ DÂN PHỐ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
(Ban hành kèm theo Quyết định số 3868/2010/QĐ-UBND ngày 07 tháng 12 năm 2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang)

LỜI NÓI ĐẦU

(Nội dung này của Quy ước nêu khái quát đặc điểm về địa lý, dân số, lịch sử, truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp, hoạt động kinh tế xã hội và tình hình thực tiễn của từng thôn, bản, tổ dân phố (sau đây gọi chung là thôn)

Để giữ gìn và phát huy các thuần phong mỹ tục của quê hương, đề cao các chuẩn mực đạo đức và tập quán tốt đẹp của dân tộc; xoá bỏ các hủ tục lạc hậu; phát triển các hình thức hoạt động văn hoá lành mạnh, xây dựng đời sống văn hoá, văn minh và tiến bộ xã hội; phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, tương thân, tương ái, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư; thực hiện tốt cuộc vận động: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”.

Để đạt được những mục tiêu tốt đẹp mà thôn mong muốn; tiến tới xây dựng thôn trở thành một đơn vị văn hoá. Nay thôn….. xây dựng bản Quy ước để toàn thể nhân dân thực hiện như sau:

Chương I

QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi áp dụng

Quy ước này quy định về các chuẩn mực xử sự của các hộ gia đình, cá nhân trong Thôn như: về phát triển kinh tế - xã hội, về nếp sống văn hóa, quy định về việc cưới, việc tang, việc lễ, hội; quy định về an ninh, trật tự, quy định về bảo vệ các công trình công cộng, vệ sinh môi trường và bảo vệ phát triển rừng…

 Điều 2. Đối tượng áp dụng

Các hộ gia đình, cá nhân sinh sống trên địa bàn thôn không phân biệt giới tính, dân tộc, độ tuổi, trình độ chính trị, văn hoá, tôn giáo, hộ khẩu thường trú hay tạm trú đều được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Đồng thời phải chấp hành tốt các điều khoản trong bản Quy ước này.

Chương II

VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG

Điều 3. Về phát triển kinh tế

1. Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống là quyền và trách nhiệm của mỗi người. Mọi người trong thôn có trách nhiệm giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh, giúp nhau vay vốn giải quyết việc làm, truyền đạt kinh nghiệm tăng năng suất và chất lượng trong sản xuất và kinh doanh.

2. Tổ chức tốt cuộc vận động toàn dân đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ, quản lý và sử dụng đất đai có hiệu quả, đúng mục đích; chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng vật nuôi theo đúng quy định của pháp luật. Tăng cường áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đưa các giống cây con có năng suất cao theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo công ăn việc làm để tăng thêm thu nhập cho người dân. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các hộ gia đình, cá nhân phải gắn với việc bảo vệ sản xuất kinh doanh và không làm ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của người khác.

3. Khuyến khích mọi người, mọi nhà làm giàu chính đáng, mở mang ngành nghề, dịch vụ, nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm... hoặc các hình thức làm kinh tế khác nhưng phải chấp hành đầy đủ nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và chịu sự quản lý của chính quyền địa phương.

4. Nghiêm cấm việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, sử dụng các loại hàng cấm, hàng lậu, hàng giả theo quy định của pháp luật.

Điều 4. Về xây dựng cơ sở hạ tầng

1. Khi xây dựng cơ sở hạ tầng của thôn phải tiến hành các bước theo đúng quy hoạch, trình tự của quy chế dân chủ ở cơ sở. Nếu số người được triệu tập họp không đủ thì thôn tiến hành phát phiếu tới từng hộ để lấy ý kiến, nếu đa số tán thành thì việc xây dựng cơ sở hạ tầng mới được thông qua và mọi người phải chấp hành.

2. Các khoản đóng góp xây dựng các công trình công cộng, xây dựng cơ sở vật chất chung của thôn phải được bàn bạc thống nhất trong thôn thông qua cuộc họp của toàn thể nhân dân và được đa số các hộ gia đình, cá nhân nhất trí, thì các hộ gia đình, cá nhân phải nghiêm túc tuân thủ, đóng góp kịp thời, tránh không thực hiện làm ảnh hưởng đến kế hoạch xây dựng công trình hoặc chương trình chung.          

Chương III

VỀ NẾP SỐNG VĂN HOÁ

Điều 5. Xây dựng nếp sống văn hoá

1. Mọi người trong thôn phải tôn trọng sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chi bộ Đảng, sự quản lý của Ban Quản lý thôn. Tham gia sinh hoạt các tổ chức, đoàn thể phù hợp với độ tuổi và điều kiện của mỗi người.

a) Chấp hành tốt quy định sinh hoạt của thôn về họp thôn. Chủ hộ phải tham gia họp, nếu bận phải cử người trong gia đình đi thay (người đi họp thay phải từ 18 tuổi trở lên) trừ trường hợp ốm đau, bất khả kháng.

b) Hàng năm các hộ gia đình, cá nhân phải đóng góp các khoản quỹ của thôn đầy đủ (trừ các đối tượng thuộc diện miễn, hoãn). Nếu hộ gia đình nào vi phạm không có lý do chính đáng thì không được xét công nhận “Gia đình văn hoá”.

2. Luôn giữ gìn mối quan hệ láng giềng thân thiện, đoàn kết, giúp đỡ nhau trong sinh hoạt, lúc khó khăn hoạn nạn, tôn trọng quyền lợi cuộc sống riêng của mỗi gia đình, giải quyết tốt các mâu thuẫn và quyền lợi trong thôn với ý thức xây dựng tình làng nghĩa xóm chân thành, thẳng thắn, tế nhị, trung thực, dân chủ và bình đẳng.

Quan tâm chăm sóc các gia đình chính sách, người có công với cách mạng, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người tàn tật, người già cô đơn không nơi nương tựa, người nghèo có hoàn cảnh khó khăn.

Điều 6. Xây dựng gia đình văn hoá

1. Các thành viên trong gia đình phải biết tôn trọng, thương yêu nhau. Mỗi thành viên phải biết hướng thiện, biết cảm thông và sống vị tha, cư xử đúng với vị trí của mình, có nếp sống lành mạnh, thường xuyên luyện tập thể dục thể thao. Giáo dục nề nếp gia phong, dòng họ có ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá, truyền thống tốt đẹp của gia đình và dòng họ. Tự hoà giải các mâu thuẫn, xích mích trong gia đình, tránh làm liên lụy đến cộng đồng, thôn.

2. Vợ, chồng sống chung thuỷ, hoà thuận, bình đẳng, tôn trọng, chia sẻ và giúp đỡ nhau trong mọi công việc. Có trách nhiệm nuôi dạy con cái và tạo điều kiện cho con cái phát triển cả về mặt thể lực và trí lực, chịu trách nhiệm đối với hành vi của con cái khi con cái chưa đến tuổi thành niên. Cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc.

3. Con cháu hiếu thảo, kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông, bà, cha, mẹ.

4. Ông, bà sống gương mẫu, chăm lo, dạy bảo con, cháu trở thành người có ích cho xã hội.

5. Đoàn kết xóm giềng, tham gia các hoạt động hoà giải, tương trợ giúp đỡ nhau trong lao động, sản xuất, khi khó khăn, hoạn nạn, xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện ở cộng đồng.

6. Xây dựng kinh tế gia đình ổn định, tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm, có kế hoạch phát triển kinh tế gia đình, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các thành viên.

Điều 7. Dân số - Kế hoạch hoá gia đình

1. Mỗi cặp vợ, chồng chỉ đẻ 1 hoặc 2 con, không sinh con thứ 3. Khoảng cách giữa hai lần sinh nên từ 3 năm đến 5 năm. Độ tuổi sinh đẻ nên từ 22 tuổi đến 35 tuổi.

Trường hợp vợ, chồng hoặc cả hai vợ, chồng trước khi lấy nhau đã có con riêng chỉ được sinh 1 con (trừ trường hợp sinh đôi, sinh ba…).

2. Mỗi cặp vợ, chồng chủ động, tự nguyện sử dụng biện pháp tránh thai để thực hiện kế hoạch hoá gia đình.

3. Cặp vợ, chồng nào sinh con thứ 3 trở lên phải chịu phê bình trước toàn thể nhân dân và không được xét công nhận “gia đình văn hoá” trong 2 năm.

Điều 8. Giáo dục, chăm sóc bà mẹ và trẻ em

1. Người mẹ trong thời kỳ mang thai cần đi khám thai ít nhất 3 lần, được tiêm phòng uốn ván và uống viên sắt đầy đủ. Khi sinh con nên đến cơ sở y tế. Trường hợp nếu sinh con ở nhà phải mời bà đỡ đã được đào tạo hoặc nhân viên y tế thôn bản để đảm bảo an toàn cho cả mẹ và con.

2. Trẻ em phải được tiêm chủng đầy đủ, được chăm sóc nuôi dưỡng tốt nhất trong khả năng của mỗi gia đình để trẻ em không bị suy dinh dưỡng.

3. Các hộ gia đình có con, em đến tuổi đi học, trong độ tuổi đi học phải tạo điều kiện để con, em đến trường học tập. Không được để con, em bỏ học giữa chừng. Ông, bà, cha, mẹ phải có trách nhiệm cùng nhà trường theo dõi, dạy dỗ con cháu học tập, rèn luyện đạt kết quả cao. Nếu con, em có khuyết điểm gia đình phải chịu trách nhiệm dạy bảo để sửa chữa ngay.

4. Nếu hộ gia đình nào để con, em bỏ học hoặc không cho con em đi học đúng độ tuổi quy định sẽ bị nhắc nhở, phê bình trước cuộc họp toàn thôn.

5. Nghiêm cấm hộ gia đình vi phạm quyền trẻ em và trẻ em, vi phạm pháp luật. Không để trẻ em bị lạm dụng tình dục, trẻ em tham gia lao động nặng nhọc, độc hại và bị ảnh hưởng các tệ nạn xã hội khác.

Điều 9. Phát triển văn hoá văn nghệ, thông tin, thể dục, thể thao

1. Các hộ gia đình phải tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình được xem các buổi diễn văn nghệ, diễn đàn; đọc sách báo, nghe đài phát thanh, theo dõi truyền hình; tham gia sinh hoạt văn hoá, thể dục, thể thao phù hợp với lứa tuổi của mình để rèn luyện sức khoẻ, tìm hiểu thế giới, phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần.

2. Hàng năm vào dịp đầu xuân thôn tổ chức các cuộc vui chơi, giải trí, thi văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao phù hợp với phong tục tập quán và điều kiện thực tế như:

a) Tổ chức ca hát mừng Đảng, mừng xuân, mừng quê hương, đất nước đổi mới, phát triển;

b) Tổ chức thi: Ném còn, múa sạp, chọi trâu, kéo co, bắn nỏ, bóng chuyền, bóng đá, cầu lông, cờ tướng, cờ vua, nhảy cao, nhảy xa, xà đơn, xà kép… phù hợp với lứa tuổi.

3. Nhân dân trong thôn phải có trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

4. Khuyến khích mọi người trong thôn tham gia các cuộc thi đấu thể dục, thể thao do xã, huyện, tỉnh, trung ương và quốc tế tổ chức.   

Điều 10. Nghiêm cấm việc buôn bán, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng các loại văn hoá phẩm đồi trụy và kích động bạo lực. Không mở to các loại loa có công suất lớn làm ảnh hưởng đến các hộ gia đình xung quanh. Các hàng quán hoạt động về đêm không làm ảnh hưởng đến hàng xóm.

Chương IV

 VỀ VIỆC CƯỚI, VIỆC TANG, LỄ TẾT

Điều 11. Về việc cưới

1. Tổ chức việc cưới phải đảm bảo theo đúng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình như:

a) Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn, trước khi tổ chức lễ cưới đôi nam nữ phải đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn làm thủ tục đăng ký kết hôn theo đúng quy định;

b) Không tổ chức cưới tảo hôn hoặc vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng;

c) Không được ép buộc, gả bán hoặc khôi phục những thủ tục lạc hậu.

2. Tổ chức đám cưới phải trang trọng, vui tươi, lành mạnh, phù hợp với phong tục, tập quán, bản sắc văn hoá của từng dân tộc và hoàn cảnh kinh tế của từng gia đình, đảm bảo yêu cầu tiết kiệm, tránh phô trương hình thức, gây lãng phí, hạn chế cỗ bàn, hạn chế các tục lệ không cần thiết. Khuyến khích tổ chức lễ cưới hỏi theo nếp sống mới, tổ chức hình thức cưới tiệc trà, văn nghệ và báo hỷ sau ngày cưới thay cho tổ chức tiệc mặn tại gia đình.

3. Trong đám cưới không nên uống rượu say. Không được sử dụng các thiết bị âm thanh gây tiếng ồn vượt quá mức quy định của pháp luật làm ảnh hưởng đến xung quanh và trật tự công cộng. Không được mở loa đài, băng đĩa nhạc sau 22 giờ và trước 6 giờ sáng.

Điều 12. Về việc tang

1. Khi có người qua đời các gia đình phải thông báo với Trưởng hoặc Phó thôn để thôn thông báo cho nhân dân trong thôn biết và gia đình có người chết phải đến UBND xã để làm thủ tục khai tử. Khi nhận được thông báo các hộ gia đình nên bố trí người đến giúp đỡ gia đình có tang khâm liệm, chuẩn bị mọi thứ cho tang lễ.

2. Việc tổ chức tang lễ chu đáo, trang nghiêm, gọn nhẹ, tiết kiệm phù hợp với phong tục tập quán, bản sắc văn hoá và hoàn cảnh của từng gia đình.

a) Khi tổ chức tang lễ không nên giết nhiều trâu, bò, ngựa... Không tổ chức ăn uống linh đình, không nên uống ruợu trong đám tang.

b) Không được để thi hài người quá cố quá 48 giờ. Trường hợp chết do bệnh dịch lây nhiễm nguy hiểm thì phải tổ chức chôn cất ngay theo quy định của Bộ Y tế. Nếu hộ nào vi phạm thì lập biên bản đề nghị cấp có thẩm quyền giải quyết.

c) Không sử dụng kèn trống, nhạc tang sau 22 giờ và trước 6 giờ sáng. Không nên đốt rải vàng mã, tiền âm phủ khi đưa tang tránh ô nhiễm môi trường.

d) Các tuần tiết trong việc tang như cúng lễ 3 ngày, 49 ngày, 100 ngày, giỗ đầu và cải táng chỉ tổ chức trong nội bộ gia đình, họ tộc và người thân.

3. Đối với những người không có hộ khẩu thường trú tại địa phương, khi qua đời gia đình có nguyện vọng tổ chức lễ tang và an táng tại địa phương thì thân nhân phải thông báo cho Trưởng thôn và xin phép Uỷ ban nhân dân xã và phải chấp hành đầy đủ các quy định về tang lễ cũng như tập quán của nhân dân địa phương.

Điều 13. Về tổ chức ngày lễ, tết, giỗ, ngày hội, ngày mừng thọ…

1. Trong các dịp ngày lễ, tết, giỗ, ngày hội, ngày mừng thọ… là dịp hội tụ con cháu gần, xa về quê hương. Các gia đình, dòng họ cần thông qua dịp này để nhắc nhở, dạy bảo con cháu nhớ về cội nguồn, tình cảm, trách nhiệm với gia đình, quê hương, thôn, xóm. Biểu dương khuyến khích những việc làm tốt, phê bình những biểu hiện tiêu cực.

Việc tổ chức ngày lễ, tết, giỗ, ngày hội… phải gọn nhẹ, không phô trương, linh đình, không kéo dài thời gian.

Các gia đình có ông, bà, cha, mẹ đến tuổi lên lão (từ 70 tuổi trở lên) vào các năm chẵn (như 70 tuổi, 75 tuổi, 80 tuổi…) thì báo cáo với Ban Quản lý thôn và Chi hội người cao tuổi để tổ chức mừng thọ vào dịp đầu xuân để thể hiện lòng tôn kính và hiếu thảo của con cháu đối với người cao tuổi trong gia đình.

2. Lễ hội là sinh hoạt văn hoá tinh thần thể hiện tập quán, truyền thống tốt đẹp của nhân dân. Khi mở lễ hội phải được sự đồng ý, hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được tổ chức. Mọi người trong thôn có trách nhiệm tham gia lễ hội. Khi tổ chức lễ hội phải thực hành tiết kiệm, không làm ảnh hưởng đến sản xuất, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Không được lợi dụng lễ hội để hoạt động mê tín dị đoan và các hành vi vi phạm pháp luật khác.

Người nào gây cản trở hoạt động của lễ hội thì bị phê bình trước cuộc họp toàn thôn.

Điều 14. Phòng chống hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan trong sinh hoạt văn hóa tâm linh

Các sinh hoạt văn hoá tâm linh, tổ chức hiếu, hỷ, thờ cúng phải phù hợp với phong tục tập quán, đảm bảo phát huy truyền thống văn hoá. Trường hợp gia đình có người ốm đau phải đưa đi chữa trị tại các cơ sở y tế, không nên dùng các biện pháp cúng bái thay thế cho việc chữa trị y học.

Cấm việc lợi dụng các sinh hoạt văn hoá tâm linh để hoạt động mê tín dị đoan. Người nào vi phạm bị khiển trách, nhắc nhở trước cuộc họp toàn thôn và lập biên bản đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

Chương V

 VỀ AN NINH TRẬT TỰ

Điều 15. Việc đăng ký hộ tịch, hộ khẩu

1. Về đăng ký hộ tịch

a) Các trường hợp khai sinh, khai tử, kết hôn, nuôi con nuôi, nhận cha, mẹ, con phải đăng ký tại UBND xã theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

b) Trẻ em khi sinh ra phải làm thủ tục đăng ký khai sinh trong vòng 60 ngày.

c) Việc kết hôn phải được đăng ký trước khi hai bên gia đình nam, nữ tổ chức đám cưới hoặc trước khi hai bên nam, nữ chung sống với nhau.

d) Việc giám hộ phải được đăng ký sau khi nhận giám hộ.

đ) Việc nhận cha, mẹ, con phải được đăng ký trước khi cha, mẹ, con về chung sống với nhau.

2. Về đăng ký hộ khẩu

a) Sau khi đăng ký hộ tịch phải thực hiện đăng ký hộ khẩu trong các trường hợp sau:

- Trẻ em sau khi đăng ký khai sinh còn cư trú tại địa phương;

- Đăng ký nhập khẩu trong trường hợp vợ hoặc chồng về sống chung với nhau;

- Con nuôi về sống chung với cha mẹ nuôi; con về ở với cha, mẹ hoặc cha, mẹ về ở với con;

- Người được giám hộ về sống chung với người giám hộ;

- Đối với trường hợp khai tử phải làm thủ tục theo quy định của pháp luật.

b) Khi có người chuyển đến cư trú lâu dài phải thực hiện đăng ký nhập khẩu, nếu có người chuyển đi phải thực hiện đăng ký chuyển khẩu.

c) Công dân của thôn đi làm ăn xa hoặc có việc cần đi xa dài ngày phải kê khai tạm vắng và xin giấy chứng nhận của chính quyền địa phương.

Hộ gia đình có người lạ lưu trú qua đêm phải báo với Trưởng thôn, nếu không báo, khi có vụ việc đáng tiếc xảy ra hộ có người lưu trú phải chịu trách nhiệm trước thôn và trước pháp luật.

3. Nếu ai vi phạm các quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này sẽ bị phê bình trước cuộc họp toàn thôn và sẽ bị thôn lập biên bản để đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

Điều 16. Giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

1. Tất cả mọi người có trách nhiệm xây dựng và giữ gìn an ninh trật tự trong thôn xóm. Không phát ngôn trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, thuần phong mỹ tục, tập quán tốt đẹp của quê hương, đất nước.

2. Mọi cá nhân không được có các hành vi làm hư hại công trình công cộng. Không được kích động gây chiến tranh tâm lý, gây rối trật tự, làm mất đoàn kết, gây gổ hằn thù, đánh chửi nhau. Nghiêm cấm tàng trữ, mua bán, sử dụng vũ khí, hung khí, chất nổ. Không dùng chất nổ, xung điện, kích điện để đánh cá. Nghiêm cấm đánh bạc, chứa bạc dưới mọi hình thức. Có ý thức đấu tranh phòng và chống các tệ nạn trộm cắp, rượu chè bê tha, hút trích ma tuý, mại dâm, truyền bá, kích động văn hoá phẩm đồi trụy.

3. Khi phát hiện kẻ gian, kẻ gây rối, những người có hành vi vi phạm pháp luật phải báo ngay cho Trưởng thôn hoặc Tổ trưởng tổ an ninh.

a) Những người vi phạm pháp luật dưới 16 tuổi nếu gây thiệt hại, thì cha mẹ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu người trên 16 tuổi thì phải xử lý theo pháp luật và Quy ước của thôn.

b) Mọi người, mọi nhà phải tự bảo vệ tài sản riêng của mình. Ban đêm hoặc khi đi vắng phải đóng cổng, khoá cửa đề phòng kẻ gian.

c) Mọi hoạt động ban đêm sau 22 giờ không được gây ồn ào ảnh hưởng đến người khác.

4. Mọi tranh chấp về quyền lợi, mâu thuẫn cá nhân phải được hoà giải ở thôn. Đơn thư khiếu kiện của công dân phải gửi đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của Luật Khiếu nại tố cáo, không được gửi vượt cấp khi cấp cơ sở chưa giải quyết hoặc giải quyết chưa xong; không lôi kéo để khiếu kiện vượt cấp, đông người.

5. Nếu ai vi phạm các quy định từ khoản 1 đến khoản 4 Điều này thì bị thôn lập biên bản để đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

Điều 17. Phòng cháy, chữa cháy

Mọi người, mọi nhà đều phải có ý thức phòng cháy, chữa cháy. Không để cho trẻ em chơi, nghịch lửa. Khi xảy ra hoả hoạn các gia đình, cá nhân phải cùng nhau chống hoả. Khi vào rừng không đốt lửa, hút thuốc.

Điều 18. Dùng điện

1. Các hộ dùng điện phải sử dụng thiết bị điện bảo đảm an toàn cho người. Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của ngành điện về an toàn sử dụng điện. Không được buộc trâu, bò, ngựa… vào cột điện. Không thả diều, đá bóng… gần hoặc dưới đường dây điện.

2. Cột bắc dây điện phải cao từ 4m đến 5m, chôn vững chắc, không được dùng dây trần.

3. Nếu ai vi phạm các quy định từ khoản 1, khoản 2 Điều này lần đầu sẽ bị phê bình trước cuộc họp toàn thể thôn. Vi phạm từ lần thứ hai trở đi sẽ bị lập biên bản để đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

Chương VI

VỀ BẢO VỆ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG, VỆ SINH, MÔI TRƯỜNG VÀ BẢO VỆ, PHÁT TRIỂN RỪNG

Điều 19. Về bảo vệ các công trình công cộng

1. Mọi người trong thôn phải có trách nhiệm bảo vệ các công trình công cộng của thôn như: Trường học, nhà văn hoá, sân vận động, đường giao thông, di tích lịch sử, văn hoá, đường dây tải điện, hệ thống truyền thanh, hệ thống tiêu thoát nước và các công trình khác.

2. Các công trình và tài sản phúc lợi tập thể, các trục đường giao thông, mương máng, không ai được sửa đổi lấn chiếm. Không được viết, vẽ bậy, bôi bẩn lên tường nhà, tường bao và những nơi công cộng khác. Ai vi phạm thì bị buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu và lập biên bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.

3. Không được ngăn mương máng để thả vịt, ngan, ngỗng hoặc ngâm vật liệu, ngăn đắp làm bệ môtơ phát điện... Ai vi phạm buộc phải tháo dỡ và khôi phục lại tình trạng ban đầu.

4. Khi xây dựng các công trình: Nhà ở, tường bao... không được lấn chiếm đất công, phải đảm bảo khoảng cách không gian, đảm bảo an toàn cho công trình tập thể, nhân dân. Nếu ai vi phạm sẽ phải bồi thường thiệt hại và bị xử lý theo quy định của pháp luật.

5. Nghiêm cấm việc đào, phá và lấy đất gần đường trục, cầu cống để bảo vệ đường giao thông trong thôn và các tuyến đường chung trên địa bàn thôn, không để các loại vật liệu trên đường làm cản trở giao thông đi lại và ảnh hưởng đến tuổi thọ của đường.

Điều 20. Giữ gìn vệ sinh, môi trường

1. Mọi gia đình và cá nhân đều phải có trách nhiệm giữ gìn vệ sinh môi trường. Các hộ gia đình trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt không được vứt các loại bao bì, rác phế thải, không được để các loại nước thải chưa qua xử lý ra nơi công cộng gây ô nhiễm môi trường.

2. Mọi người phải có ý thức giữ gìn sức khoẻ cho mình và những người thân, phải thực hiện ăn chín, uống sôi, tẩm màn và tiêm phòng đúng định kỳ theo quy định của cơ sở y tế để phòng chống dịch bệnh. Làm tốt công tác vệ sinh môi trường, đường làng ngõ xóm sạch đẹp, phát quang bờ, bụi, quét dọn đường giao thông.

3. Các hộ gia đình ở trên địa bàn thôn phải có công trình vệ sinh (hố tiêu, nhà xí) sạch sẽ, kín đáo. Giếng, bể nước, nhà tắm… hợp vệ sinh. Các xác chết động vật phải được chôn lấp cẩn thận, không được vứt bừa bãi trên nguồn nước làm ô nhiễm môi trường.

4. Các hộ gia đình, cá nhân phải dùng nước sạch để sinh hoạt.

Điều 21. Về dịch bệnh

1. Mọi gia đình đều phải chấp hành tốt các quy định của Pháp lệnh thú y như:

a) Tiêm phòng đầy đủ cho đàn gia súc, gia cầm.

b) Thực hiện các biện pháp (phòng là chính) để không phát sinh và lây lan dịch bệnh.

2. Đối với gia súc, gia cầm bị bệnh, bị dịch không được buôn bán, vận chuyển, giết mổ. Khi phát hiện bị bệnh dịch phải báo cáo với Ban Quản lý thôn để tổ chức tiêu huỷ tránh lây lan dịch bệnh.

Điều 22. Về chăn, thả gia súc, gia cầm

1. Các hộ gia đình, cá nhân chăn nuôi gia súc, gia cầm được Ban Quản lý thôn và cơ quan có thẩm quyền tạo điều kiện để phát triển, nhưng phải phù hợp với tập quán, truyền thống và không gây ảnh hưởng đến cây trồng, hoa màu của người khác. Đối với ruộng lúa, ngô nghiêm cấm chăn thả gia súc, không được chăn thả gia cầm ở ruộng mạ và vùng lúa mới cấy. Nếu người nào vi phạm thì bị phê bình trước cuộc họp của toàn thôn và buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu.

2. Trâu, bò, ngựa, dê... của các hộ gia đình, cá nhân phải được chăn dắt cẩn thận. Ban đêm phải nhốt vào chuồng. Nếu để trâu, bò, ngựa, dê… đi phá ruộng vườn, phá nương của người khác tùy theo mức độ thiệt hại thì phải bồi thường.

Điều 23. Về bảo vệ, và phát triển rừng

1. Công tác bảo vệ rừng

a) Mọi người trong thôn có trách nhiệm bảo vệ hệ sinh thái rừng; không chăn thả gia súc vào rừng; săn, bắt, bẫy… động vật trong rừng; phòng chống việc chặt, phá, khai thác rừng; phòng cháy, chữa cháy rừng và phòng trừ sâu bệnh hại rừng theo quy định của pháp luật.

b) Trong mùa hanh khô các cá nhân, hộ gia đình và chủ rừng chủ động làm đường băng cản lửa những khu vực trọng điểm dễ xảy ra cháy rừng ở các khu rừng tự nhiên, rừng trồng. Việc canh tác nương rẫy trong rừng, ven rừng phải tuân thủ hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của trưởng thôn, cán bộ lâm nghiệp và kiểm lâm trên địa bàn.

2. Công tác phát triển rừng

a) Đối với rừng phòng hộ: Mọi người dân trong thôn được giao rừng và đất lâm nghiệp tự bỏ vốn trồng rừng để tập trung khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh rừng, chăm sóc làm giàu rừng và trồng dặm các loài cây dưới tán rừng.

b) Đối với rừng sản xuất: Mọi người dân trong thôn tham gia trồng rừng khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh rừng để làm giàu rừng bằng vốn hỗ trợ của nhà nước và tự bỏ vốn trồng rừng tập trung hoặc chia cho hộ gia đình.

c) Khi chủ rừng khai thác rừng đã đến tuổi khai thác thì chủ rừng phải làm đơn xin phép khai thác và thống kê số cây, diện tích, khối lượng cần chặt hạ và trình cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép khai thác.

d) Khi chủ rừng có nhu cầu khai thác, tận thu đối với rừng tự nhiên, rừng phòng hộ đã được nhà nước giao thì chủ rừng phải làm đơn xin phép khai thác và thống kê số cây, diện tích, khối lượng cần chặt hạ trình Trưởng thôn, UBND xã xác nhận và gửi UBND cấp huyện cấp giấy phép khai thác. Gỗ khai thác phải được đóng dấu búa Kiểm lâm thì mới được phép lưu thông.

3. Nếu cá nhân, hộ gia đình, tổ chức nào vi phạm khoản 1 và khoản 2 Điều này bị phê bình nhắc nhở trước cuộc họp toàn dân và lập biên bản gửi cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật

(Những nội dung về Bảo vệ và phát triển rừng chỉ ghi trong Quy ước của thôn có rừng)

Chương VII

 VỀ KHEN THƯỞNG, XỬ LÝ VI PHẠM QUY ƯỚC

Điều 24. Về khen thưởng

Hộ gia đình, cá nhân có thành tích trong việc xây dựng và thực hiện Quy ước của thôn được ghi nhận công lao, thành tích vào sổ vàng truyền thống; được nêu gương người tốt, việc tốt trên hệ thống loa truyền thanh hoặc tại các hội nghị toàn thôn; được bình xét công nhận gia đình văn hoá; được công nhận các hình thức khen thưởng khác do cộng đồng tự thoả thuận; được đề nghị các cấp chính quyền khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua khen thưởng.

Điều 25. Về xử lý vi phạm Quy ước

Hộ gia đình, cá nhân nào vi phạm các điều khoản trong Quy ước của thôn tuỳ theo mức độ mà xử lý bằng các hình thức sau đây:

1. Vi phạm lần đầu và lỗi nhẹ được phê bình, nhắc nhở trước cuộc họp toàn thể nhân dân của thôn;

2. Vi phạm từ lần thứ hai trở lên, trên cơ sở thảo luận thống nhất trong tập thể cộng đồng thì đưa ra kiểm điểm tại tổ chức, đoàn thể mà người đó đang sinh hoạt, đưa ra kiểm điểm trước hội nghị nhân dân; không được bình xét công nhận “gia đình văn hoá” (nếu là hộ gia đình) và phải đóng góp vào quỹ chung của thôn tối đa không quá 40.000 đồng hoặc các thôn có thể căn cứ vào tình hình thực tế của thôn để đưa hình thức đóng góp khác nhau như: Phạt ngày công lao động làm các việc cho cộng đồng, thóc, gạo, ngô, khoai, sắn....

Việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm trong Quy ước này không thay thế các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.

Chương VIII

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Điều 26. Về quản lý, sử dụng Quỹ thôn thu theo Quy ước

1. Thôn, bản, tổ dân phố có trách nhiệm thành lập Ban Quản lý thôn để thực hiện việc quản lý, sử dụng Quỹ thôn.

2. Ban Quản lý thôn có trách nhiệm trực tiếp quản lý, ghi sổ, sử dụng số tiền thu được từ hộ gia đình, cá nhân trong thôn vi phạm Quy ước. Số tiền thu được sẽ chi cho các hoạt động chung như: Tổ chức hội, họp sơ kết, tổng kết để xây dựng và thực hiện Quy ước; Chi khen thưởng cho các hộ gia đình, cá nhân chấp hành tốt Quy ước của thôn. Hàng năm Ban Quản lý thôn phải công khai số tiền thu và số tiền chi trước cuộc họp toàn thôn.

Tuyệt đối nghiêm cấm sử dụng số tiền thu được từ các khoản đóng góp do vi phạm Quy ước của các hộ gia đình, cá nhân trong thôn vào các mục đích khác.

Điều 27. Tổ chức thực hiện

1. Bản Quy ước này thể hiện ý chí của toàn thể nhân dân trong thôn, được Hội nghị toàn thể nhân dân trong thôn nhất trí thông qua và được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

2. Trong quá trình thực hiện, Quy ước sẽ được sửa đổi, bổ sung khi có những nội dung không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của thôn hoặc theo nguyện vọng của nhân dân trong thôn; việc sửa đổi, bổ sung Quy ước do Hội nghị toàn thể nhân dân trong thôn quyết định, sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì được tổ chức thi hành.

3. Trưởng thôn và toàn thể nhân dân trong thôn có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc Quy ước này.

4. Quy ước này đã được Hội nghị toàn thể nhân dân trong thôn nhất trí thông qua. Trưởng ban công tác Mặt trận Tổ quốc; Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn ký chứng thực sau khi được ban hành ./.

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 3868/2010/QĐ-UBND

Loại văn bảnQuyết định
Số hiệu3868/2010/QĐ-UBND
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành07/12/2010
Ngày hiệu lực17/12/2010
Ngày công báo...
Số công báo
Lĩnh vựcBộ máy hành chính
Tình trạng hiệu lựcHết hiệu lực 01/03/2020
Cập nhật4 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Download Văn bản pháp luật 3868/2010/QĐ-UBND

Lược đồ Quyết định 3868/2010/QĐ-UBND Quy ước mẫu thôn, bản, tổ dân phố


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản sửa đổi, bổ sung

        Văn bản bị đính chính

          Văn bản được hướng dẫn

            Văn bản đính chính

              Văn bản bị thay thế

                Văn bản hiện thời

                Quyết định 3868/2010/QĐ-UBND Quy ước mẫu thôn, bản, tổ dân phố
                Loại văn bảnQuyết định
                Số hiệu3868/2010/QĐ-UBND
                Cơ quan ban hànhTỉnh Hà Giang
                Người kýĐàm Văn Bông
                Ngày ban hành07/12/2010
                Ngày hiệu lực17/12/2010
                Ngày công báo...
                Số công báo
                Lĩnh vựcBộ máy hành chính
                Tình trạng hiệu lựcHết hiệu lực 01/03/2020
                Cập nhật4 năm trước

                Văn bản được dẫn chiếu

                  Văn bản hướng dẫn

                    Văn bản được hợp nhất

                      Văn bản gốc Quyết định 3868/2010/QĐ-UBND Quy ước mẫu thôn, bản, tổ dân phố

                      Lịch sử hiệu lực Quyết định 3868/2010/QĐ-UBND Quy ước mẫu thôn, bản, tổ dân phố