Quyết định 440/QĐ-UBND

Quyết định 440/QĐ-UBND năm 2011 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2011 - 2015 do tỉnh Bình Định ban hành

Nội dung toàn văn Quyết định 440/QĐ-UBND 2011 Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2011 2015 Bình Định


ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH ĐỊNH
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 440/QĐ-UBND

Bình Định, ngày 01 tháng 9 năm 2011

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC BAN HÀNH KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011 - 2015

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH

Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;

Căn cứ Nghị quyết số 19/2011/NQ-UBND ngày 18/8/2011 của HĐND tỉnh Khóa XI, kỳ họp thứ 2 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015.

Điều 2. Thủ trưởng các sở, ban, cơ quan của tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố căn cứ Kế hoạch này cụ thể hóa thành mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp Kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm của cơ quan, địa phương mình để tổ chức thực hiện.

Điều 3. Giao Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối theo dõi, tổng hợp tình hình triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 của tỉnh; hướng dẫn các sở, ban, cơ quan của tỉnh, UBND các huyện, thành phố xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm; chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan đề xuất các chủ trương, chính sách, giải pháp nhằm tổ chức thực hiện thành công Kế hoạch này.

Điều 4. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư, Thủ trưởng các sở, ban, cơ quan của tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố chịu trách nhiệm thi hành quyết định này kể từ ngày ký./.

 

 

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
CHỦ TỊCH




Lê Hữu Lộc

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011-2015
(Ban hành kèm theo Quyết định số 440/QĐ-UBND ngày 01/9/2011 của UBND tỉnh)

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM 2006 - 2010

Trong 5 năm triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2006-2010 có những thuận lợi cơ bản: đất nước ổn định về chính trị, quốc phòng - an ninh được đảm bảo; công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của tỉnh.

Bên cạnh những thuận lợi, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới trong vài năm gần đây; tình hình suy giảm kinh tế trong nước; thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư gặp khó khăn; những yếu kém của tỉnh chậm được khắc phục; thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra gây hậu quả nặng nề đến sản xuất và đời sống của nhân dân trong tỉnh đã tác động lớn đến kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Trước tình hình đó, các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn, thách thức; Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát huy tối đa nguồn nội lực đi đôi với tích cực tranh thủ các nguồn ngoại lực; lựa chọn các vấn đề trọng tâm, lĩnh vực trọng điểm để xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể; phân công chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện và đạt được những kết quả quan trọng.

I. KẾT QUẢ.

1. Về phát triển kinh tế.

Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng. Tốc độ tăng tổng sản phẩm địa phương (GDP) bình quân 5 năm đạt khoảng 10,9% (kế hoạch đề ra là 13%), so với giai đoạn 2001 - 2005 cao hơn 2%; trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 7,2% (kế hoạch 5,6%), công nghiệp và xây dựng 15,4% (kế hoạch 21,8%), dịch vụ 11,6% (kế hoạch 13,5%). Thu ngân sách tăng bình quân 20,7%/năm; GDP bình quân đầu người 940 USD. Cơ cấu kinh tế (năm 2010): nông, lâm, ngư nghiệp 35,7%; công nghiệp - xây dựng 27,2%; dịch vụ 37,1% (so với năm 2005 các tỉ trọng tương ứng là 38,4% - 26,7% - 34,9%). Cơ cấu lao động xã hội có bước chuyển dịch theo hướng giảm dần trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và tăng trong lĩnh vực công nghiệp - dịch vụ.

a. Sản xuất công nghiệp có bước phát triển.

Tỉnh đã đẩy mạnh quy hoạch phát triển các khu, cụm công nghiệp; điều chỉnh, bổ sung chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề; ban hành các cơ chế, chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư; xây dựng cơ sở hạ tầng các khu, cụm công nghiệp; đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước; hỗ trợ các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khôi phục và phát triển sản xuất sau thời kỳ suy giảm kinh tế… Bên cạnh các khu công nghiệp Phú Tài, Long Mỹ tiếp tục phát triển, các khu công nghiệp Nhơn Hòa, Hòa Hội đang được đầu tư xây dựng; một số cụm, điểm công nghiệp, làng nghề ở các huyện, thành phố đã đi vào hoạt động, phát huy hiệu quả, thu hút các cơ sở, doanh nghiệp vào đầu tư sản xuất, giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động trong tỉnh. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 16%.

Đối với Khu kinh tế Nhơn Hội, đã hoàn thành công tác quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch, lập quy hoạch chi tiết các khu chức năng trong Khu kinh tế; đang tập trung đẩy nhanh tiến độ công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư, đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, giao thông, hệ thống cấp nước, cấp điện, viễn thông… Công tác xúc tiến đầu tư được chú trọng, đã thu hút một số doanh nghiệp đầu tư vào các khu chức năng, xây dựng và kinh doanh hạ tầng các khu công nghiệp trong Khu kinh tế; một số dự án công nghiệp đã và đang được triển khai xây dựng, bắt đầu đi vào hoạt động.

b. Sản xuất nông nghiệp phát triển khá toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa.

Đã tập trung chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mùa vụ; ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất; phát triển các vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến. Năng suất, sản lượng và chất lượng sản phẩm nhiều loại cây trồng tăng khá. Sản lượng lương thực có hạt năm 2010 đạt khoảng 689.500 tấn (tăng 128.500 tấn so với năm 2005).

Chăn nuôi phát triển mạnh; giá trị sản xuất bình quân hằng năm tăng 10,7%. Tỉ lệ bò lai tăng từ 47% (năm 2005) lên 65% (năm 2010). Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển vốn rừng được chú trọng. Độ che phủ rừng tăng từ 41,7% năm 2005 lên khoảng 45,7% năm 2010 (kế hoạch 44%). Giá trị sản xuất thủy sản tăng bình quân 9,3%/năm; năng lực đánh bắt, sản lượng khai thác, nuôi trồng thủy hải sản đều tăng khá.

Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm 7,5%. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tiếp tục phát triển; cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp phát triển khá nhanh; các dịch vụ phục vụ kinh tế nông nghiệp, nông thôn được đầu tư phát triển đa dạng hơn. Đã quy hoạch, đầu tư xây dựng một số khu, cụm công nghiệp; phát triển các cơ sở chế biến nông lâm hải sản; khôi phục và phát triển nhiều làng nghề, góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Việc quy hoạch và từng bước đầu tư xây dựng các thị trấn, thị tứ đã thúc đẩy tốc độ đô thị hóa nông thôn. Cơ sở hạ tầng nông thôn (giao thông, thủy lợi, cấp điện, trường học, bệnh xá, chợ...) tiếp tục được đầu tư xây dựng. Bộ mặt nông thôn có đổi mới, đời sống nhân dân nhiều vùng nông thôn được cải thiện đáng kể.

c. Các hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch, tài chính và liên kết, hợp tác kinh tế tiếp tục phát triển.

Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp về hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh. Việc liên kết kinh tế, hợp tác đầu tư với các địa phương, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước được chú trọng; hợp tác phát triển toàn diện giữa tỉnh ta với các tỉnh Nam Lào đạt được một số kết quả bước đầu. Giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ tăng bình quân hằng năm 11,6%. Hoạt động nội thương tăng trưởng khá (bình quân hàng năm tăng 23,2%). Mặc dù ảnh hưởng suy giảm kinh tế thế giới nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm qua tăng bình quân 14,8%/năm, tăng 18,8% so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra (1,783/1,5 tỉ USD).

Hạ tầng du lịch tiếp tục được đầu tư xây dựng; lượng khách du lịch tăng bình quân hằng năm 22,1%, doanh thu du lịch tăng 24,8%. Dịch vụ vận tải hàng hóa và vận chuyển hành khách phát triển mạnh. Hàng thông qua cảng biển trong 5 năm đạt 19,8 triệu TTQ, tăng 75,2% so với 5 năm trước, trong đó cảng Quy Nhơn 17,2 triệu TTQ, cảng Thị Nại 2,6 triệu TTQ. Dịch vụ bưu chính - viễn thông, hoạt động tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn... tiếp tục phát triển.

Thu ngân sách luôn vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra hàng năm (tăng bình quân 20,7%/năm); thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2010 đạt 3.250 tỉ đồng, trong đó thu nội địa 2.115 tỉ đồng, gấp 2,56 lần so với năm 2005.

d. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tiếp tục được đầu tư xây dựng và phát huy hiệu quả.

Tổng vốn đầu tư huy động trên địa bàn tăng nhanh, 5 năm đạt trên 37.837 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng bình quân 40,3%/GDP, tốc độ tăng bình quân 19,3%/năm, gấp 2,63 lần tổng vốn đầu tư của 5 năm trước. Các công trình kết cấu hạ tầng: giao thông, thủy lợi, điện, nước sinh hoạt, trường học, cơ sở y tế, văn hóa, hạ tầng Khu kinh tế Nhơn Hội và các khu, cụm công nghiệp, cảng biển... tiếp tục được đầu tư xây dựng, nâng cấp, mở rộng. Nhiều công trình quan trọng đã hoàn thành, đưa vào sử dụng như: cầu đường Quy Nhơn - Nhơn Hội, hồ Định Bình, đường Xuân Diệu, đường DT 639, đường Gò Găng - Cát Tiến, tượng đài Hoàng đế Quang Trung (Bảo tàng Quang Trung), Nhà văn hóa Trung tâm tỉnh... Thành phố Quy Nhơn được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh; các thị trấn Bình Định, Bồng Sơn được công nhận là đô thị loại IV; đang tiếp tục triển khai công tác quy hoạch xây dựng thị trấn Phú Phong lên đô thị loại IV.

đ. Phát triển các thành phần kinh tế.

Việc sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đảm bảo theo kế hoạch đề ra. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả. Đến hết năm 2010 toàn tỉnh có 3.859 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, với tổng số vốn đăng ký 18.500 tỉ đồng (vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp 4,7 tỉ đồng). Nhiều hợp tác xã nông nghiệp đã chuyển đổi phương thức hoạt động, doanh thu, lợi nhuận và thu nhập của xã viên tăng; có 128/284 hợp tác xã khá, giỏi, chiếm 45% (trong đó, hợp tác xã nông nghiệp khá giỏi 74/184, chiếm tỷ lệ 40%). Khu vực doanh nghiệp dân doanh phát triển mạnh, đã đóng góp 81% tổng sản phẩm toàn tỉnh. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có bước phát triển.

e. Phát triển các vùng kinh tế.

Vùng đô thị: Không gian đô thị trên địa bàn tỉnh tiếp tục được mở rộng; tỉ lệ đô thị hóa đạt khoảng 30% (kế hoạch là 35%). Dân cư đô thị sử dụng nước sạch đạt 48%. Hạ tầng đô thị các thị trấn Bình Định, Bồng Sơn, Phú Phong và nhiều thị trấn, thị tứ khác được đầu tư xây dựng, nâng cấp; nhiều cụm, điểm công nghiệp, làng nghề được hình thành; thương mại, dịch vụ phát triển; văn hóa - xã hội có tiến bộ. Thành phố Quy Nhơn đã được quy hoạch, mở rộng không gian, đầu tư xây dựng mới các công trình hạ tầng, các trung tâm thương mại, dịch vụ; nâng cấp, mở rộng cảng biển... bước đầu phát huy vai trò trung tâm thương mại - dịch vụ của tỉnh, vùng.

Vùng đồng bằng: đã hình thành các vùng chuyên canh, thâm canh cây lương thực, cây công nghiệp; phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng trang trại, gia trại. Một số cụm, điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, các cơ sở dịch vụ, thương mại được xây dựng, khôi phục, phát triển, đã góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Hệ thống kết cấu hạ tầng vùng đồng bằng tiếp tục được đầu tư xây dựng, 99% số thôn có điện lưới, 85,7% số hộ sử dụng nước hợp vệ sinh. Hầu hết các tuyến đường giao thông liên xã, liên thôn đã được bê tông hóa.

Vùng miền núi và trung du: Kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng cao có nhiều chuyển biến tiến bộ. Bằng nhiều nguồn vốn (ngân sách tỉnh, vốn chương trình mục tiêu quốc gia, vốn hỗ trợ của các doanh nghiệp và cộng đồng) đã tập trung đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu như: điện, đường giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt... Đến nay, hầu hết các xã miền núi, trung du đều có điện lưới quốc gia và đường bê tông đến tận trung tâm xã, kể cả các xã vùng sâu, vùng xa như Canh Liên (Vân Canh), An Toàn (An Lão), Bok Tới (Hoài Ân). Đường phía Tây tỉnh đã đưa vào sử dụng từng phần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng phía Tây các huyện An Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ. Các chính sách trợ giá, trợ cước, hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, khai hoang đất sản xuất, hỗ trợ làm nhà ở... tiếp tục được thực hiện có kết quả, góp phần phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, giảm dần tỉ lệ hộ nghèo.

Vùng biển và ven biển: Các tuyến giao thông ven biển, hệ thống điện lưới quốc gia, hệ thống thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông, kết cấu hạ tầng nghề cá và nuôi trồng thủy sản được đầu tư xây dựng khá đồng bộ. Hạ tầng thành phố Quy Nhơn và các thị trấn, thị tứ của các huyện ven biển được đầu tư nâng cấp, mở rộng. Hệ thống đô thị ven biển từng bước được hình thành. Một số dự án du lịch, dịch vụ ven biển đang được triển khai xây dựng... Các công trình kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với việc quy hoạch, bố trí dân cư vùng ven biển đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh tuyến biển. Tiềm năng kinh tế biển và vùng ven biển được khai thác ngày càng hiệu quả hơn.

2. Về giáo dục - đào tạo và khoa học, công nghệ.

Chất lượng giáo dục - đào tạo có chuyển biến tiến bộ. Hệ thống mạng lưới trường lớp, các ngành học, cấp học tiếp tục được củng cố và mở rộng theo hướng đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Đã thành lập các trường: Đại học Quang Trung, Cao đẳng Y tế, Cao đẳng Bình Định, Cao đẳng nghề, Trung cấp nghề Hoài Nhơn, Trường Chuyên biệt Hy Vọng và hệ thống trung tâm hướng nghiệp dạy nghề các huyện, thành phố. Trường Đại học Quy Nhơn, các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đã phát huy tác dụng tốt, góp phần quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh và khu vực. Giáo dục - đào tạo ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm và có bước phát triển. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên được chuẩn hóa và nâng chuẩn. Công tác phổ cập giáo dục bậc trung học tiếp tục được triển khai. Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học, xây dựng nhà công vụ cho giáo viên tiếp tục được thực hiện đúng kế hoạch. Công tác xã hội hóa giáo dục - đào tạo từng bước mở rộng và đạt được kết quả bước đầu. Hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập tiếp tục được đẩy mạnh. Việc thực hiện chính sách đào tạo, đãi ngộ, thu hút nhân lực có trình độ cao được quan tâm.

Hoạt động khoa học - công nghệ đạt được một số kết quả. Việc nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ vào công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, vào sản xuất và đời sống đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng một số cây trồng, vật nuôi và sản phẩm hàng hóa chủ yếu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cung cấp một số luận cứ khoa học cho việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

3. Về văn hóa, xã hội.

a. Hoạt động trên các lĩnh vực y tế, văn hóa, thông tin - truyền thông, thể dục - thể thao có tiến bộ.

Các chương trình quốc gia về y tế tiếp tục được triển khai thực hiện. Công tác y tế dự phòng, phòng chống dịch bệnh và vệ sinh môi trường được chú trọng; đã khống chế và ngăn ngừa dịch H1N1, H5N1 ở người và một số dịch bệnh khác, không để bùng phát và lây lan ra diện rộng. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân có tiến bộ. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, bình đẳng giới và tiến bộ phụ nữ được coi trọng. Mức hưởng thụ các dịch vụ y tế của nhân dân tăng lên, đặc biệt là trẻ em, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Bệnh viện Đa khoa tỉnh đã được nâng cấp đạt tiêu chuẩn Bệnh viện hạng I; một số cơ sở y tế cấp tỉnh, khu vực và cấp huyện tiếp tục được đầu tư xây dựng, nâng cấp. Mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được củng cố, tăng cường. Đến cuối năm 2010, có 146/159 xã, phường, thị trấn (gọi chung là xã) được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế, chiếm 91,8% và tăng 70 xã, 151/159 trạm y tế xã có bác sĩ, đạt tỉ lệ 94,96% và tăng 26 xã, tỉ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 18,6%, giảm 5,9% so với cuối năm 2005.

Chất lượng các hoạt động văn hóa - thông tin, báo chí - phát thanh, truyền hình có tiến bộ. Công tác bảo tồn, trùng tu các di tích lịch sử, văn hóa, di tích cách mạng và kháng chiến được quan tâm. Nhiều công trình văn hóa được đầu tư xây dựng mới… Các hoạt động lễ hội làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần, chính trị, có tác dụng giáo dục tốt; đặc biệt đã tổ chức thành công Festival Tây Sơn - Bình Định lần thứ I, liên hoan Võ cổ truyền Quốc tế lần I, II, III, góp phần quảng bá rộng rãi hình ảnh đất nước, con người Bình Định. Hoạt động báo chí có sự đổi mới về hình thức và nội dung, đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ, nhu cầu thông tin tuyên truyền trong tỉnh, 95% địa bàn dân cư được phủ sóng phát thanh - truyền hình. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” từng bước đi vào chiều sâu.

Công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, y tế, thể dục - thể thao được mở rộng và đạt kết quả bước đầu. Đã chú trọng đầu tư phát triển các bộ môn thể thao thành tích cao có thế mạnh của tỉnh đi đôi với phát triển phong trào thể dục, thể thao quần chúng.

b. Giải quyết các vấn đề xã hội.

Cùng với việc chỉ đạo quyết liệt triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tỉnh đã tích cực huy động các nguồn lực tập trung khắc phục hậu quả các đợt thiên tai, bão lũ, ổn định sản xuất và đời sống nhân dân. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm, giảm nghèo, thực hiện chính sách với người và gia đình có công đạt kết quả tích cực. Trong 5 năm qua đã đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghề trên 10 vạn lượt người; giải quyết việc làm cho hơn 12 vạn lao động. Tỉ lệ người lao động thất nghiệp so với lực lượng lao động trong tỉnh giảm 3,57% (so với đầu nhiệm kỳ); đã huy động được nhiều nguồn vốn trong xã hội cho công tác giảm nghèo, tỉ lệ hộ nghèo đến năm 2010 còn 17,59% (theo tiêu chí mới). Đến cuối năm 2010, đã cơ bản hoàn thành kế hoạch hỗ trợ xây dựng nhà ở cho đối tượng chính sách, hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số có nhà ở đơn sơ. Công tác thực hiện chính sách đối với người có công với nước đạt kết quả tích cực. Các hoạt động nhân đạo, từ thiện được đẩy mạnh. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung, đời sống nhân dân trong tỉnh ổn định, một bộ phận được cải thiện.

4. Về củng cố quốc phòng - an ninh.

Đã chỉ đạo triển khai thực hiện có kết quả các chủ trương, biện pháp về tăng cường quốc phòng - an ninh trên địa bàn tỉnh. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và xây dựng tiềm lực trong khu vực phòng thủ tỉnh ngày càng vững chắc. Công tác quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh được tăng cường; phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với củng cố quốc phòng - an ninh đạt hiệu quả. Chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang tỉnh được nâng lên. Công tác huấn luyện, diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh, cấp huyện, thành phố đạt kết quả tốt.

Công tác nắm tình hình được các lực lượng phối hợp chặt chẽ; đã kịp thời phát hiện, đấu tranh trấn áp có hiệu quả các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị, bất mãn, lợi dụng tôn giáo, âm mưu hình thành các tổ chức phản động để chống phá chế độ. An ninh tuyến núi được giữ vững; an ninh tuyến biển cơ bản được đảm bảo.

Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được củng cố; các đợt cao điểm ra quân tấn công trấn áp các loại tội phạm, ngăn ngừa vi phạm và kiềm chế tai nạn giao thông đạt kết quả. Điều tra phá án hình sự, kinh tế, ma túy đạt tỉ lệ cao.

Công tác quốc phòng, an ninh đã góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Các lực lượng vũ trang tỉnh tham gia tích cực, có hiệu quả các hoạt động cứu trợ, cứu nạn, phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai.

Chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp có nhiều tiến bộ. Công tác thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử được tập trung chỉ đạo. Đã phát hiện, điều tra, xử lý một số vụ việc sai phạm liên quan đến tham nhũng, lãng phí trong quản lý, sử dụng đất đai, xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng ngân sách… Công tác thi hành án dân sự đạt kết quả khá.

II. KHUYẾT ĐIỂM, YẾU KÉM.

1. Kinh tế phát triển chưa bền vững; tăng trưởng kinh tế đạt thấp so với kế hoạch đề ra; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm không cao.

Việc đầu tư phát triển hạ tầng, đền bù, giải tỏa, tái định cư, giao đất cho các doanh nghiệp tại các khu, cụm công nghiệp thiếu tập trung, kiên quyết, nhất quán; chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư thường xuyên thay đổi, bổ sung, gây khó khăn cho công tác giải phóng mặt bằng. Tiến độ triển khai một số dự án hạ tầng kỹ thuật không theo đúng kế hoạch; công tác thu hút đầu tư gặp nhiều khó khăn, hiệu quả thấp, nhất là thu hút đầu tư nước ngoài. Đối với Khu kinh tế Nhơn Hội, tuy đã tập trung huy động nhiều nguồn lực nhằm đẩy nhanh tiến độ xây dựng, nhưng do chưa lường hết được những khó khăn do tác động của suy giảm kinh tế thế giới, vấn đề địa hình, môi trường, cùng với những yếu kém trong quá trình chỉ đạo, điều hành công tác giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng và việc khai thác tận thu ti tan trong Khu kinh tế... đã làm chậm tiến độ xây dựng hạ tầng và thu hút đầu tư.

Chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi còn chậm, chưa vững chắc. Năng suất, chất lượng một số cây trồng, vật nuôi, hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích canh tác chưa cao. Việc quy hoạch phát triển các vùng nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến nhìn chung hiệu quả còn thấp. Việc lựa chọn phát triển một số cây trồng, vật nuôi có loại chưa căn cứ vào điều kiện thổ nhưỡng của tỉnh và thị trường tiêu thụ; mặt khác, công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa chặt chẽ, hạ tầng vùng nguyên liệu yếu kém, cơ chế, chính sách hỗ trợ chưa đồng bộ, kịp thời... dẫn đến một số chương trình, dự án về cây trồng, vật nuôi không thành công. Công tác quản lý, bảo vệ rừng còn nhiều hạn chế. Công tác trồng rừng cảnh quan, rừng phòng hộ tiến hành chậm. Chỉ đạo xử lý ô nhiễm môi trường, lấn chiếm đất đai, quản lý khai thác tài nguyên, khoáng sản chưa chặt chẽ, kiên quyết; việc khai thác tài nguyên, khoáng sản chưa gắn với bảo vệ môi trường, an sinh xã hội, có nơi để xảy ra tình hình phức tạp kéo dài, gây hậu quả xấu. Việc chỉ đạo đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế hợp tác chưa tập trung đúng mức. Tiềm năng du lịch chưa được khai thác có hiệu quả; sản phẩm du lịch còn nghèo nàn. Công tác quản lý đầu tư xây dựng chưa chặt chẽ. Tiến độ xây dựng một số công trình trọng điểm chậm. Công tác quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch có mặt không phù hợp; công tác chỉnh trang đô thị chưa đáp ứng yêu cầu; hạ tầng đô thị còn nhiều vấn đề bức xúc. Kinh tế - xã hội các vùng trong tỉnh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng.

2. Chất lượng giáo dục toàn diện chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác quản lý giáo dục chậm đổi mới. Do chưa tính hết những đặc điểm, khó khăn của một số vùng trong tỉnh, nhất là miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa và một số yếu tố khác nên việc đề ra mục tiêu phổ cập giáo dục bậc trung học tính khả thi thấp, kết quả thực hiện không đạt kế hoạch đề ra. Giáo dục đại học và đào tạo nghề chưa thật gắn kết với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Kết quả thực hiện chính sách đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao và thu hút nhân tài còn hạn chế. Chưa có biện pháp huy động tối đa các nguồn lực của xã hội để chăm lo sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Hiệu quả ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học - công nghệ vào thực tiễn ở một số lĩnh vực còn thấp. Việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin còn chậm.

3. Công tác quản lý các hoạt động văn hóa có mặt còn bất cập. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở một số nơi còn nặng về hình thức. Một số bộ môn thể thao thành tích cao phát triển thiếu ổn định. Chất lượng khám, chữa bệnh ở tuyến huyện và cơ sở nhiều mặt còn hạn chế. Tình trạng quá tải ở các bệnh viện công chưa được khắc phục. Quản lý hành nghề y dược và hoạt động khám chữa bệnh tư nhân chưa chặt chẽ. Tiêu cực trong khám chữa bệnh, thiếu trách nhiệm và giảm sút y đức của một số nhân viên y tế gây bức xúc trong nhân dân. Xã hội hóa trên các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục - đào tạo, thể thao chưa đạt yêu cầu. Kết quả thực hiện chương trình giảm nghèo chưa vững chắc; tỉ lệ hộ nghèo ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn cao; một bộ phận người lao động thiếu việc làm, nhất là lao động ở nông thôn; đời sống nhân dân miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, nguy cơ tái nghèo còn cao.

4. Chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng tiềm lực trong khu vực phòng thủ có mặt kết quả còn hạn chế; lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, công an cơ sở có nơi còn yếu. Công tác giáo dục quốc phòng toàn dân chưa sâu rộng; trật tự xã hội có mặt diễn biến phức tạp; các loại tội phạm hình sự có chiều hướng gia tăng; đối tượng vi phạm pháp luật trong lứa tuổi thanh thiếu niên chiếm tỷ lệ cao; tai nạn giao thông chưa được kiềm chế. An ninh nông thôn tuyến ven biển còn nhiều vấn đề bức xúc; khả năng phát hiện và xử lý tình huống phức tạp xảy ra có lúc, có nơi chưa tốt, tính chủ động và khả năng cơ động của các lực lượng chưa cao. Công tác điều tra, truy tố, xét xử một số vụ án còn chậm; tình trạng đơn thư vượt cấp, khiếu kiện đông người còn xảy ra.

III. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT.

Qua 5 năm thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2006-2010, nền kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng trưởng và phát triển; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Sản xuất nông nghiệp phát triển khá toàn diện và đạt mức tăng trưởng cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tập trung đầu tư đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển của tỉnh. Các hoạt động giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa - thể thao, chăm sóc sức khỏe nhân dân... có tiến bộ. An sinh xã hội cơ bản được đảm bảo; đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Quốc phòng được củng cố; an ninh chính trị được giữ vững; trật tự an toàn xã hội cơ bản đảm bảo. Công tác xây dựng hệ thống chính trị đạt được kết quả tích cực. Những kết quả đạt được trong 5 năm qua là quan trọng, tạo điều kiện để tỉnh ta tiếp tục phát triển mạnh hơn trong những năm tới.

Nguyên nhân của những kết quả trên là do có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ, sự giúp đỡ của các bộ, ban, ngành Trung ương và các địa phương; những kinh nghiệm và kết quả trong đầu tư phát triển của các nhiệm kỳ trước; sự nỗ lực, phấn đấu của toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân, các ngành, các cấp, Mặt trận, đoàn thể trong tỉnh. Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã nêu cao quyết tâm, năng động trong lãnh đạo, chỉ đạo; thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường đoàn kết nội bộ, tạo sự đồng thuận xã hội. Các cấp ủy, chính quyền đã chủ động vận dụng, cụ thể hóa và chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào điều kiện cụ thể ở địa phương.

Tuy nhiên quá trình triển khai thực hiện cũng còn một số khuyết điểm, yếu kém (như đã nêu trên). Những khuyết điểm, yếu kém này có nguyên nhân khách quan do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu; thiên tai, bão lũ, dịch bệnh cây trồng, vật nuôi liên tiếp xảy ra; những yếu kém vốn có của nền kinh tế tỉnh… nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan sau đây: Công tác dự báo còn yếu, chưa lường hết được diễn biến phức tạp của tình hình và những khó khăn, thách thức trong giai đoạn 2006 - 2010 nên xây dựng một số nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp chưa phù hợp. Năng lực vận dụng, cụ thể hóa, nhất là việc tổ chức thực hiện của cấp ủy, chính quyền, đơn vị, địa phương trên một số mặt còn hạn chế. Chưa tập trung đúng mức việc lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết một số vấn đề trọng tâm, lĩnh vực trọng điểm. Sự phối hợp giữa các sở, ngành; giữa sở, ngành với các địa phương trong một số lĩnh vực thiếu chặt chẽ, đồng bộ. Trình độ, năng lực, ý thức tổ chức kỷ luật của một số cán bộ, đảng viên, tinh thần trách nhiệm người đứng đầu một số ngành, địa phương, đơn vị, cơ sở còn yếu.

Phần thứ hai

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011 -2015

Bước vào kế hoạch 5 năm 2011 - 2015, tỉnh ta có những thuận lợi cơ bản như: kinh tế nước ta đã và đang từng bước phục hồi, tiếp tục đà tăng trưởng. Trung ương Đảng, Chính phủ tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo triển khai quyết liệt những giải pháp nhằm ngăn ngừa suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và phát triển bền vững; những kết quả về kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm qua tạo tiền đề quan trọng để phát triển mạnh hơn trong những năm tới. Tuy nhiên, tình hình chính trị, kinh tế thế giới tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường; giá cả, lạm phát tăng cao; những yếu kém về kinh tế - xã hội của tỉnh chưa thể khắc phục ngay; nguồn nội lực còn hạn chế; ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… còn tiếp tục diễn biến phức tạp. Đây là những khó khăn, thách thức lớn đối với sự phát triển của tỉnh trong những năm tới. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi các cấp, các ngành và địa phương trong tỉnh cần tiếp tục phát huy thuận lợi, tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức; phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân; thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị giai đoạn 2011 - 2015.

I. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 2011 – 2015.

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; phát huy nội lực, tranh thủ tối đa các nguồn ngoại lực; khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của tỉnh; tích cực thu hút đầu tư, liên kết, hợp tác với các địa phương, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa tỉnh nhà, trong đó tập trung phát triển kinh tế theo hướng hiệu quả và bền vững. Gắn phát triển kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái; tạo tiền đề để đến năm 2020, tỉnh ta cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp.

II. CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ - XÃ HỘI.

1. Các chỉ tiêu kinh tế.

- Tổng sản phẩm địa phương (GDP) tăng bình quân hàng năm 13-14%, trong đó khu vực nông lâm - ngư - nghiệp tăng 6,5%; công nghiệp - xây dựng tăng 19,6% (riêng công nghiệp tăng 20,7%); khu vực dịch vụ tăng 12,7% với chất lượng tăng trưởng cao.

- GDP bình quân đầu người năm 2015 đạt trên 2.000 USD.

- Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế để đến năm 2015, tỷ trọng các ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm khoảng 26,2%; công nghiệp - xây dựng chiếm khoảng 36,1% và khu vực dịch vụ chiếm khoảng 37,7%.

- Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2011-2015 đạt 2 tỷ 800 triệu USD.

- Tăng thu ngân sách, phấn đấu đủ chi thường xuyên và từng bước tích lũy cho đầu tư phát triển. Phấn đấu thu ngân sách đạt 5.500 tỷ đồng vào năm 2015.

- Tăng nhanh đầu tư toàn xã hội, giải quyết tốt tích lũy và tiêu dùng, thu hút mạnh các nguồn vốn từ bên ngoài. Huy động vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm đạt 43% GDP.

- Tỷ lệ đô thị hóa đạt 40% vào năm 2015.

- Triển khai xây dựng 20% số xã theo tiêu chuẩn nông thôn mới.

2. Các chỉ tiêu xã hội.

- Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo và bồi dưỡng nghề đạt 55%.

- Mỗi năm giải quyết 25.000-30.000 việc làm việc mới cho người lao động.

- Cơ cấu lao động xã hội: nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 52%; công nghiệp - xây dựng: 23%; dịch vụ: 25%.

- Trong 5 năm đến, giảm tỷ suất sinh hàng năm 0,2‰-0,3‰.

- Đến năm 2015 có trên 98% số trạm y tế xã có bác sỹ và trên 98% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn dưới mức 17%.

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 1,8%-2% mỗi năm.

3. Các chỉ tiêu về môi trường.

- Tỷ lệ che phủ rừng đạt trên 47% vào năm 2015.

- Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 95%; tỷ lệ dân số đô thị được cấp nước sạch đạt 70%.

- Đến năm 2015, thu gom và xử lý 100% chất thải rắn sinh hoạt ở thành phố Quy Nhơn và 70% ở các đô thị.

- 100% chất thải công nghiệp, chất thải y tế được thu gom và xử lý đạt chuẩn môi trường.

III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH SẢN XUẤT, DỊCH VỤ.

1. Phát triển công nghiệp.

a. Phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại, tiếp tục tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của tỉnh.

Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng ngành công nghiệp - xây dựng bình quân 19,6%/năm. Để đạt được mục tiêu này, giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng đạt 20,7%/năm.

Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển công nghiệp đến năm 2015 và định hướng đến năm 2025. Phấn đấu đưa công nghiệp phát triển nhanh hơn nữa dựa trên các ngành nghề lợi thế: chế biến thủy sản, chế biến nông lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh các ngành sản xuất: tân dược, giày da, may mặc, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu cá; đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp cơ khí, thép, năng lượng điện, vật liệu điện, điện tử, công nghiệp nhựa, sản xuất thiết bị nông, lâm, thủy hải sản và phụ tùng thay thế; từng bước phát triển sản xuất vật liệu xây dựng không nung. Kết hợp nhiều trình độ công nghệ, ưu tiên công nghệ cao, sạch, tiêu tốn ít nguyên liệu, năng lượng, thân thiện với môi trường.

Phát triển mạnh công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn kết hợp với công nghiệp sử dụng nhiều lao động ở các vùng nông thôn, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động. Phát triển công nghiệp khoáng sản trên cơ sở quy hoạch được duyệt, quản lý chặt chẽ và khai thác hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản theo hướng khai thác và chế biến sâu khoáng sản đi liền với bảo vệ môi trường, không xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản thô.

Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ, tăng sức cạnh tranh và giá trị gia tăng của sản phẩm. Đối với công nghiệp chế biến gỗ, cơ cấu lại sản phẩm một cách hợp lý giữa sản xuất hàng ngoại thất và hàng nội thất, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa và chủ động ứng phó với thị trường xuất khẩu khi có biến động. Điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các doanh nghiệp xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, xây dựng nguồn nguyên liệu, đào tạo và sử dụng tốt nguồn nhân lực..., giúp các doanh nghiệp mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh.

Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp hiện có. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư kết cấu hạ tầng, triển khai các dự án trong các khu, cụm công nghiệp. Trong 5 năm đến, cùng với đầu tư hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp Phú Tài, Long Mỹ, tập trung xây dựng và thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp Nhơn Hòa, Hòa Hội, Bình Nghi - Nhơn Tân, Cát Trinh và các cụm công nghiệp ở các huyện, thành phố. Ưu tiên thu hút các dự án có quy mô lớn, thiết bị công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, tạo bước chuyển dịch mạnh cơ cấu sản xuất công nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đến năm 2010, các khu công nghiệp tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp chiếm khoảng 25% và kim ngạch xuất khẩu khoảng 30% so với toàn tỉnh.

Điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách thu hút đầu tư; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư đi đôi với chỉ đạo quyết liệt thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tạo chuyển biến mạnh mẽ, tích cực đối với môi trường đầu tư.

b. Tập trung sức đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng, tích cực thu hút đầu tư vào Khu kinh tế Nhơn Hội, tạo bước đột phá quan trọng trong phát triển nhanh kinh tế của tỉnh.

Rà soát, bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết các khu chức năng trong Khu kinh tế. Đẩy nhanh tiến độ bồi thường, giải phóng mặt bằng, xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật và các công trình dịch vụ, tiện ích công cộng. Tập trung đẩy mạnh công tác trồng rừng cảnh quan, đặc biệt là trồng rừng phòng hộ và có giải pháp chống cát bay.

Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư, thu hút các ngành công nghiệp có quy mô lớn, xây dựng cảng biển tổng hợp Nhơn Hội và các công trình dịch vụ hậu cần cảng Nhơn Hội.

Phấn đấu đến năm 2015, giá trị sản xuất công nghiệp trong Khu kinh tế chiếm khoảng 20% tổng giá trị sản xuất công nghiệp và 10% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh. Sớm hoàn thành quy hoạch chi tiết khu đô thị mới Nhơn Hội và huy động các nguồn vốn, các hình thức đầu tư xây dựng khu đô thị mới, khu đô thị - dịch vụ Cát Tiến, Nhơn Lý; xây dựng, đưa vào khai thác một số dự án du lịch biển, du lịch sinh thái tuyến Nhơn Lý - Cát Tiến và các vùng phụ cận Khu kinh tế.

c. Phát triển mạnh các sản phẩm có lợi thế về nguyên liệu, nhân lực và thị trường; đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ, từng bước hiện đại hóa các ngành sản xuất công nghiệp, cụ thể:

c1. Chế biến thủy hải sản, súc sản:

- Nâng cấp, mở rộng sản xuất các nhà máy đông lạnh hiện có. Đầu tư mới các nhà máy đông lạnh xuất khẩu hiện đại với công suất dự kiến 4.000 - 6.000 tấn/năm gắn với các cảng cá tại Hoài Nhơn, Phù Cát và Trung tâm khai thác, chế biến thủy sản và dịch vụ hậu cần nghề cá tại Mỹ Thành, Phù Mỹ; phấn đấu đến năm 2015 tổng công suất chế biến thủy hải sản đông lạnh là 15.000 tấn/năm.

- Xây dựng cơ chế và hình thành các tổ, đội thu mua hải sản trên biển, nhất là hải sản đánh bắt xa bờ nhằm đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất.

- Đầu tư xây dựng một số cụm công nghiệp chế biến thủy sản theo công nghệ truyền thống, kết hợp ứng dụng công nghệ mới để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các sản phẩm nước mắm, hải sản khô.

- Tìm kiếm thị trường xuất khẩu thịt gia súc, gia cầm; đầu tư xây dựng một số trung tâm giết mổ động vật tập trung và nhà máy chế biến súc sản đóng hộp công suất khoảng 10.000 tấn/năm để nâng cao hiệu quả sản phẩm chăn nuôi trên địa bàn tỉnh.

c2. Chế biến nông sản, thực phẩm, đồ uống:

- Chế biến mía - đường: Trên cơ sở vùng nguyên liệu mía đã quy hoạch, phát huy tối đa công suất chế biến của Nhà máy Đường Bình Định, đầu tư nâng công suất lên 4.500 tấn mía/ngày khi có điều kiện, đến năm 2015 đạt sản lượng 50.000 tấn.

- Sản xuất đồ uống: Nghiên cứu đầu tư cải tiến mẫu mã, bao bì, nâng cao chất lượng và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm để đầu tư nâng công suất nhà máy bia đến năm 2015 đạt 100 triệu lít/năm. Thực hiện liên doanh, liên kết đầu tư sản xuất một số loại nước giải khát có thương hiệu mạnh, sản xuất sữa đậu nành, sữa dừa. Tăng công suất các sản phẩm từ sữa (20 - 30 triệu lít/năm), nước khoáng (50 triệu lít/năm). Phát triển và củng cố thương hiệu rượu Bầu Đá, hỗ trợ kinh phí và các điều kiện cần thiết để nâng cao thương hiệu rượu nổi tiếng này của tỉnh; đầu tư xây dựng nhà máy chưng cất rượu Bàu Đá chất lượng cao công suất 4-5 triệu lít/năm, đảm bảo an toàn vệ sinh, môi trường sinh thái.

- Chế biến điều, dừa và dầu thực vật: Tiếp tục đầu tư chiều sâu các cơ sở chế biến điều hiện có để đạt sản lượng chế biến khoảng 14.200 tấn/năm, xây dựng nhà máy sản xuất dầu từ vỏ điều với công suất 1.000 tấn/năm. Đầu tư mới nhà máy chế biến hạt điều tại huyện Tây Sơn/Hoài Nhơn công suất 5.000 tấn nhân điều/năm và 2.000 tấn dầu từ vỏ điều/năm. Tiếp tục đầu tư chiều sâu nâng cấp các cơ sở chế biến dừa và cơm dừa nạo sấy xuất khẩu hiện có. Kêu gọi đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất sữa dừa xuất khẩu tại huyện Hoài Nhơn, công suất 3.000 tấn/năm; nhà máy sản xuất dầu diesel từ dừa, công suất khoảng 100 tấn sản phẩm/ngày trên cơ sở phát triển phù hợp vùng nguyên liệu.

- Chế biến sắn: Củng cố, phát huy tối đa công suất Nhà máy chế biến tinh bột sắn, đầu tư nâng công suất lên 30.000 tấn SP/năm trên cơ sở có hiệu quả, đảm bảo vệ sinh, môi trường sinh thái; sắp xếp lại các cơ sở chế biến bột sắn thủ công; đôn đốc tiến độ xây dựng, tạo điều kiện cho Nhà máy tinh bột biến tính tại Khu kinh tế Nhơn Hội hoạt động có hiệu quả.

c3. Sản xuất thức ăn chăn nuôi, thủy hải sản:

- Tiếp tục đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm của 6 nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi tại các khu, cụm công nghiệp; mở rộng thị trường tiêu thụ để phát huy hết công suất hiện có (311.000 tấn/năm) của các nhà máy.

- Đôn đốc các nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động các dự án đang triển khai tại Khu công nghiệp Nhơn Hòa và Bình Nghi, Tây Sơn; thu hút đầu tư mới nhà máy thức ăn chăn nuôi và thủy hải sản với công suất 20.000 - 30.000 tấn sản phẩm/năm.

- Đầu tư mở rộng quy mô công suất các nhà máy hiện có khi có điều kiện. Tiếp tục thu hút các dự án đầu tư mới, dự án đầu tư sản xuất sản phẩm hỗ trợ như chế biến các mặt hàng nông sản (bột mì, bột bắp, bột cám), các mặt hàng thủy sản như bột cá, bột thịt, bột xương... đặc biệt nhóm vi lượng (khoáng chất, vitamin, chất tạo mùi) trong nước vẫn chưa sản xuất được.

- Phấn đấu đến năm 2015 sản xuất đạt 150.000 tấn, tăng 6,3 lần so với năm 2010; giai đoạn 2011-2015 sản xuất đạt 460.000 tấn, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn đạt 44,6%/năm.

c4. Chế biến gỗ và lâm sản:

Giữ vững và mở rộng thị trường, đầu tư chiều sâu, hiện đại hóa các cơ sở chế biến gỗ, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm, chú trọng các sản phẩm nội thất. Tiếp tục đầu tư mở rộng các nhà máy hiện có tại KCN Phú Tài và Long Mỹ để chuyển sang sản xuất gỗ nội thất; triển khai đầu tư chiều sâu hoặc đầu tư mới một số nhà máy sản xuất chế biến gỗ cao cấp quy mô lớn tại KCN Cát Trinh; phấn đấu đến năm 2015 đưa tổng công suất thiết kế các nhà máy lên 400.000 m3/năm, trong đó sản phẩm gỗ nội thất chiếm từ 40% trở lên. Thu hút đầu tư xây dựng mới tại Khu kinh tế Nhơn Hội và các khu công nghiệp các nhà máy chế biến gỗ dân dụng cao cấp và trang trí nội thất có công suất 30.000 m3 gỗ tinh chế/năm, nhà máy sản xuất ván ép (ván ép, ván MDF, ván ghép thanh) và sản phẩm nội thất từ ván ép có công suất 50.000 - 100.000 m2/năm, nhà máy sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ có công suất 5.000 - 10.000 m3 sản phẩm mỹ nghệ/năm; đồng thời đầu tư nhà máy sản xuất phụ liệu và chất bổ trợ cho ngành gỗ. Phấn đấu đến năm 2015 sản xuất đạt 19,9 triệu sản phẩm, tăng 2,5 lần so năm 2010; tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn đạt 19,7%/năm.

c5. Công nghiệp dệt may, da giày, đồ nhựa:

- Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các nhà máy may hiện có; hỗ trợ Tổng công ty may Nhà Bè hoàn thành các dự án đầu tư và đầu tư mở rộng tại Quy Nhơn, An Nhơn, Hoài Nhơn, Phù Cát; xây dựng nhà máy may quy mô lớn tại Khu kinh tế Nhơn Hội. Kêu gọi đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất vải cao cấp, vải giả da (simili), vải nhựa các loại, phụ liệu ngành may.

- Bổ sung một số thiết bị chuyên dùng đối với các nhà máy sản xuất giày để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm tăng sức cạnh tranh. Liên kết, hợp tác tạo nguyên liệu, bán thành phẩm cho sản xuất; giữ vững thị trường truyền thống, tìm kiếm mở thêm thị trường mới. Đầu tư mở rộng nâng công suất nhà máy sản xuất giày da lên 7 triệu đôi/năm. Đầu tư xây dựng từ 1-2 xí nghiệp sản xuất giày dép xuất khẩu, công suất từ 1-1,5 triệu đôi/năm. Đầu tư mới nhà máy sản xuất khuôn mẫu, dao chặt và phụ kiện ngành da giày.

- Kêu gọi đầu tư nhà máy sản xuất đồ nhựa dân dụng và công nghiệp có công suất 10.000-50.000 tấn sản phẩm/năm.

c6. Công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản:

Khai thác hợp lý nguồn sa khoáng titan, cung cấp nguyên liệu tại chỗ, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà máy sản xuất xỉ titan hoạt động và nâng cao hiệu quả; đầu tư mới 3 nhà máy sản xuất xỉ titan, nâng tổng số lên 6 nhà máy với tổng sản lượng khoảng 171.000 tấn/năm; tiếp tục đầu tư và đưa vào hoạt động thêm 4 dây chuyền nghiền mịn bột zircon với công suất 12.000 tấn/năm, nâng tổng công suất nghiền mỗi năm lên 18.000 tấn zircon siêu mịn đạt tiêu chuẩn xuất khẩu; khuyến khích các doanh nghiệp đã đầu tư chế biến sâu tiếp tục đầu tư sản xuất thành các loại sản phẩm như: chế biến thành pigment titan, Titan Kim loại, trợ dung hàn và các sản phẩm đặc biệt khác.... Đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ khai thác, chế biến đá granite. Xây dựng nhà máy nước khoáng thiên nhiên tại Chánh Thắng (Cát Thành, Phù Cát). Tích cực hỗ trợ triển khai dự án thăm dò, khai thác vàng tại huyện Tây Sơn và Vĩnh Thạnh.

c7.Công nghiệp sản xuất gốm sứ, vật liệu xây dựng:

Xây dựng thêm một số nhà máy gạch tuy-nen; tập trung thu hút đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất gạch và các loại vật liệu xây dựng không nung tại Khu kinh tế Nhơn Hội và các khu công nghiệp để đáp ứng nhu cầu xây dựng dân dụng, công nghiệp và phát triển đô thị, đồng thời tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng (trong đó có tận dụng nguồn đá thải, bột đá từ chế biến đá ốp lát và các nguồn đá xây dựng khác). Đầu tư nhà máy sản xuất gạch ceramic, nhà máy sản xuất tấm lợp, ống thép sợi thủy tinh, vật liệu composite cốt liệu sợi thủy tinh. Nâng cấp, đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm đá granite ốp lát, đá chẻ, đá khối, đá nghiền; thu hút đầu tư nhà máy nhuộm và phủ bề mặt đá ốp lát.

c8. Công nghiệp cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin:

- Đầu tư nhà máy sản xuất và cung cấp, lắp ráp động cơ máy thủy, máy móc thiết bị nghề cá, cơ khí tàu thuyền; kêu gọi đầu tư xây dựng mới nhà máy cơ khí chế tạo với quy mô công suất phù hợp ở Khu kinh tế Nhơn Hội và các Khu công nghiệp, trước hết là chế tạo các sản phẩm cơ khí phục vụ cho sản xuất, chế biến nông - lâm - thủy sản. Mở rộng nâng cao công suất, đa dạng hóa sản phẩm khi có điều kiện.

- Tập trung sản xuất một số thiết bị đang có thị trường tiêu thụ như máy sấy, hấp, máy lọc, cấp nước y tế, thiết bị xử lý chất thải bệnh viện với quy mô sản xuất khoảng 3.000-4.000 sản phẩm/năm;

- Triển khai đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất tuabin điện gió (tuabin 1,5 MW và 2,5 MW với công suất 10-25 tổ máy/tháng) của Công ty Fuhrlaender (Đức) với tổng vốn đầu tư khoảng 23 triệu USD tại Khu công nghiệp Nhơn Hội - Khu B để cung cấp thiết bị cho các nhà máy phong điện tại Việt Nam và xuất khẩu.

- Kêu gọi đầu tư xây dựng mới nhà máy dây và dây cáp điện công suất khoảng 5.000-8.000 tấn sản phẩm/năm, nhà máy sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất vật liệu điện, pin mặt trời; nhà máy sản xuất, lắp ráp xe ô tô, phụ kiện, linh kiện, phụ tùng ô tô.

- Đầu tư nhà máy thép tại Khu kinh tế Nhơn Hội, các cơ sở sản xuất thép ống hàn 20-100 mm (bao gồm cả ống thép thường và ống thép inox), công suất 2.000-3.000 tấn/năm tại huyện An Nhơn.

- Phát triển nhà máy sản xuất que hàn chất lượng cao trên nền nguyên liệu ilmenite của tỉnh với công suất khoảng 100.000-200.000 tấn/năm để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

- Đầu tư nhà máy sản xuất lắp ráp mặt hàng điện tử dân dụng, máy tính cá nhân, thiết bị viễn thông, thiết bị quang điện tử... Phát triển cơ sở vật chất, nguồn nhân lực để hình thành ngành công nghệ phần mềm của tỉnh.

c9. Công nghiệp dược phẩm, hóa chất, lọc hóa dầu:

- Hoàn thành đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động Nhà máy sản xuất thuốc tiêm và dịch truyền với công suất 40 triệu lít dịch truyền và 200 triệu ống thuốc tiêm/năm; nâng công suất sản xuất dung dịch truyền đến năm 2015 đạt 50 triệu lít/năm. Phấn đấu đến năm 2015, thuốc nước (trừ kháng sinh) đạt 400.000 lít/năm; thuốc viên kháng sinh đạt 100 triệu viên; thuốc viên (trừ kháng sinh) đạt 550 triệu viên. Đầu tư dây chuyền sản xuất thuốc điều trị ung thư và thực phẩm chức năng. Đầu tư nâng cấp xưởng thuốc đông khô. Tập trung mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á.

- Ổn định chất lượng, thành phần NPK của phân NPK để giữ uy tín sản phẩm trên thị trường, đồng thời tiếp tục quảng bá sản phẩm, tăng cường tiêu thụ nhằm nâng công suất Nhà máy phân NPK lên 100.000 tấn sản phẩm/năm (giai đoạn II) vào thời điểm thích hợp.

- Kêu gọi đầu tư các nhà máy sản xuất săm lốp ô tô, xe máy, sơn cao cấp.

- Phát triển công nghiệp lọc hóa dầu tại Khu kinh tế Nhơn Hội với công suất phù hợp với từng giai đoạn.

c10. Công nghiệp năng lượng:

- Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng và đưa vào vận hành các nhà máy thủy điện Trà Xom (20MW), Vĩnh Sơn 5 (28MW), An Khê-Kanak (163MW) vào năm 2011-2012; thủy điện Vĩnh Sơn 3 (30MW), Vĩnh Sơn 4 (18MW) vào năm 2013; thủy điện Vĩnh Sơn 2 (100MW) vào năm 2014 và các nhà máy khác đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư.

- Đôn đốc triển khai, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư xây dựng các nhà máy phong điện tại KKT Nhơn Hội với công suất khoảng 120MW.

- Đầu tư xây dựng nhà máy điện địa nhiệt tại Khu nước nóng Hội Vân thuộc xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát kết hợp với các khu chức năng như nghỉ dưỡng, chữa bệnh, du lịch sinh thái.

2. Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và nông thôn.

- Phấn đấu giá trị gia tăng của ngành nông, lâm, ngư nghiệp 5 năm 2011-2015 tăng bình quân 6,5%/năm. Để đạt được mục tiêu đó, giá trị sản xuất của ngành nông, lâm, ngư nghiệp sẽ phải tăng khoảng 6,8%/năm.

- Tăng cường quản lý bảo vệ rừng, thực hiện tốt khoanh nuôi và trồng rừng. Đến năm 2015 nâng độ che phủ rừng đạt trên 47%.

- Xây dựng và phát triển nông thôn mới, đến năm 2015, toàn tỉnh có 27 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm trên 20% tổng số xã trên địa bàn tỉnh.

Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, thân thiện với môi trường, gắn với công nghiệp chế biến, thị trường tiêu thụ và xuất khẩu. Tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi; phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp.

Thực hiện tốt công tác khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư; đẩy mạnh việc chuyển giao và ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học, công nghệ trong nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; áp dụng công nghệ hiện đại trong khâu bảo quản, chế biến các loại nông sản. Tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là gia súc, gia cầm và thủy sản. Thực hiện tốt việc kết hợp chặt chẽ "4 nhà" (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước) trong phát triển sản xuất nông nghiệp.

a. Ngành trồng trọt:

Ổn định diện tích trồng lúa có năng suất, chất lượng cao phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu; mở rộng diện tích trồng ngô, đảm bảo an ninh lương thực. Phát triển các vùng nguyên liệu mía, sắn, nguyên liệu giấy phục vụ công nghiệp chế biến. Tiếp tục quy hoạch và xây dựng các vùng chuyên canh cây trồng, chú trọng các loại cây có giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích. Quy hoạch phát triển các vùng sản xuất hoa, cây cảnh hàng hoá và vùng chuyên canh rau sạch.

a1. Cây lương thực:

Đến năm 2015, ổn định tổng sản lượng lương thực cây có hạt tối thiểu 700.000 tấn.

Cây lúa: Chuyển diện tích lúa những vùng năng suất kém sang trồng các loại cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn. Đến năm 2015, diện tích trồng lúa là 109.000 ha, năng suất lúa 60 tạ/ha. Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, tập trung sản xuất các loại lúa có chất lượng, năng suất cao, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng ở tỉnh. Xây dựng vùng lúa trọng điểm có chất lượng cao tại các vùng đất đai màu mỡ, chủ động về nước tưới.

Cây ngô: Trồng trên đất chuyên màu hoặc xen canh, luân canh trên diện tích đất lúa, đất soi, bãi với các giống ngô lai có chất lượng và năng suất cao phù hợp với từng vùng. Đến năm 2015 diện tích trồng ngô khoảng 12.000ha.

a2. Cây công nghiệp:

Cây mía: Diện tích trong các giai đoạn tới ổn định 4.500 ha với sản lượng năm 2015 là 315.000 tấn, trong đó hình thành vùng mía tập trung với diện tích 3.000 ha cho nhà máy đường.

Cây sắn: Phát triển cây sắn trên những vùng đồi gò, diện tích ổn định năm 2015 là 10.000 ha, sản lượng toàn tỉnh đạt 300.000 tấn, trong đó vùng thâm canh bố trí 4.400 ha.

Cây lạc: Phát triển trên diện tích chuyên canh, luân canh trên đất 2 lúa 1 màu, đất màu và trồng xen mía. Diện tích mở rộng 13.000 ha đến năm 2015, sản lượng lạc toàn tỉnh năm 2015 đạt 39.000 tấn.

Cây đậu tương: Phát triển luân canh trên đất lúa, đất màu và trồng xen trên đất mía với diện tích đến năm 2015 là 1.500 ha và sản lượng đạt 3.750 tấn.

Cây điều: Chú trọng cải tạo vườn điều năng suất thấp để tăng năng suất, sản lượng, chất lượng và giá trị xuất khẩu. Mở rộng diện tích đến năm 2015 là 20.000 ha, sản lượng đạt 14.260 tấn.

Cây dừa: Tập trung đầu tư cải tạo giống để nâng cao chất lượng và năng suất, nhiều quả, tỷ lệ cùi và hàm lượng dầu cao. Diện tích dừa năm 2015 là 12.000 ha, sản lượng đạt 138.000 tấn.

b. Chăn nuôi.

Phát triển mạnh chăn nuôi theo hình thức trang trại, gia trại gắn với quy hoạch các vùng chăn nuôi tập trung. Đẩy mạnh lai tạo đàn bò, nạc hóa đàn heo, phát triển đàn gia cầm. Nâng cao chất lượng con giống, đa dạng hóa sản phẩm. Nuôi bò lai, bò lấy sữa, lợn hướng nạc, gia cầm có năng suất thịt và trứng cao và chuyển dần sang chăn nuôi công nghiệp, khuyến khích phát triển và mở rộng các mô hình chăn nuôi trang trại, hình thành các vùng chăn nuôi tập trung, đồng thời gắn chăn nuôi với chế biến, tiêu thụ. Đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, nuôi dưỡng, phòng trừ dịch bệnh, sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi.

Đến năm 2015, đàn trâu bò đạt 370 ngàn con, tỷ lệ bò lai đạt 75%; đàn lợn 900 ngàn con, đàn gia cầm 6,5 triệu con (trong các giai đoạn không có dịch cúm). Phấn đấu tỷ trọng chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất trồng trọt - chăn nuôi vào năm 2015 đạt 45%, trồng trọt và dịch vụ nông nghiệp chiếm 55%.

c. Phát triển lâm nghiệp.

Đẩy mạnh trồng rừng, kết hợp với khoanh nuôi phục hồi và bảo vệ rừng, đặc biệt là rừng đầu nguồn. Phát triển trồng rừng trên đất trống, đồi trọc và trồng rừng cảnh quan ở núi Vũng Chua, Bà Hỏa, ven biển, các khu du lịch.

Phát triển các loại cây lấy gỗ, cây công nghiệp và cây nguyên liệu giấy trên đất lâm nghiệp. Đến năm 2015, trồng rừng phòng hộ theo chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng và thực hiện trồng rừng theo chương trình viện trợ ODA của các tổ chức tài chính quốc tế. Nâng tỷ lệ che phủ rừng lên trên 47%. Khoanh nuôi, tái sinh rừng cho những vùng phòng hộ có độ che phủ thấp, có thể kết hợp trồng các loại cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm. Đảm bảo diện tích trồng rừng tập trung hàng năm 5.000 ha. Hoàn thành việc giao đất, giao rừng để trên từng diện tích rừng đều có chủ cụ thể. Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh rừng tại địa phương, các tỉnh đã ký kết hợp tác và các tỉnh của Lào.

d. Phát triển thủy sản.

Phát triển thủy sản thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh. Quy hoạch và đầu tư mở rộng diện tích nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh ở những vùng đủ điều kiện; hạn chế việc phát triển diện tích nuôi tôm trên đất cát ven biển. Áp dụng các biện pháp nuôi luân canh, xen canh, nuôi tổng hợp, nuôi công nghiệp bằng hệ thống lồng, bè trên biển. Phát triển nuôi trồng thủy sản kết hợp với phục hồi hệ thống rừng ngập mặn và phát triển du lịch sinh thái vùng đầm Thị Nại. Nâng cao năng lực khai thác hải sản xa bờ gắn với công tác bảo vệ an ninh, chủ quyền biển, đảo. Tập trung xây dựng Trung tâm khai thác, chế biến hải sản và dịch vụ hậu cần nghề cá tại thôn Vĩnh Lợi, Mỹ Thành, Phù Mỹ; các cụm chế biến hải sản, các điểm tránh, trú bão cho tàu cá. Đầu tư nâng cấp các cơ sở chế biến thủy hải sản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, tạo dựng thương hiệu sản phẩm thủy sản của tỉnh, nâng cao giá trị xuất khẩu và tính cạnh tranh của sản phẩm.

Khuyến khích đầu tư đóng mới, trang bị đồng bộ đội tàu câu cá ngừ đại dương hiện đại có công suất 150 - 600 CV và tàu dịch vụ hậu cần và thu mua xuất khẩu thủy sản trên biển nhằm tăng sản lượng và nâng cao hiệu quả nghề đánh bắt xa bờ; xây dựng các tổ, đội hợp tác trên biển để tổ chức thu mua, xây dựng các điểm thu mua cá ngừ đại dương tại cảng cá Quy Nhơn, Đề Gi và Tam Quan. Dự kiến đến năm 2015 khai thác khoảng 154.500 tấn hải sản; diện tích nuôi tôm và thuỷ đặc sản trên 5.000 ha.

Nâng cao năng lực và chất lượng chế biến thủy, hải sản, phát huy nghề chế biến truyền thống, đa dạng hóa mặt hàng, cải tiến và nâng cấp thiết bị, công nghệ chế biến, tạo nhiều sản phẩm chất lượng cao tham gia thị trường xuất khẩu. Phấn đấu hàng thủy sản xuất khẩu tăng bình quân 13% mỗi năm và năm 2015 chiếm 12% tổng giá trị xuất khẩu.

đ . Xây dựng nông thôn mới.

Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn; tạo điều kiện để kinh tế hộ phát triển sản xuất hàng hoá, góp phần phân công lại lao động. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp. Tăng cường công tác quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản; sử dụng đất đúng quy hoạch, tiết kiệm, hiệu quả. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, kinh tế phát triển, hạ tầng kinh tế - xã hội tương đối đồng bộ; giữ gìn và phát huy các ngành nghề truyền thống có giá trị văn hóa và giá trị kinh tế cao.

Triển khai xây dựng 27 xã trong tổng số 129 xã trong toàn tỉnh theo chuẩn nông thôn mới, đạt trên 20% (chủ yếu sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng kết cấu hạ tầng). Đến năm 2015 hoàn chỉnh quy hoạch xây dựng nông thôn mới cho toàn bộ 129 xã. Quy hoạch, đầu tư xây dựng các thị trấn, thị tứ, cụm dân cư; các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề để nông dân có việc làm tại chỗ. Tổ chức thực hiện tốt công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ bê tông hóa giao thông nông thôn; đầu tư xây dựng thủy lợi, điện, nước sinh hoạt; xây dựng, nâng cấp đê biển, đê sông, trường học, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục - thể thao. Thực hiện có hiệu quả chương trình giảm nghèo. Tăng cường các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, kế hoạch hóa gia đình, nâng cao dân trí và đời sống nhân dân; xây dựng nếp sống văn hoá; bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển nông thôn bền vững.

3. Phát triển khu vực kinh tế dịch vụ.

Phát triển các ngành dịch vụ, chú trọng phát triển các ngành chất lượng cao, phấn đấu giá trị gia tăng đạt bình quân 12,7% mỗi năm và chiếm tỷ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP lên 37-38% vào năm 2015.

a. Thương mại, dịch vụ.

Tiếp tục điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách khuyến khích xuất khẩu, xúc tiến thương mại. Tập trung đầu tư phát triển các nhóm hàng xuất khẩu có lợi thế như thủy hải sản, lâm sản, nông sản thực phẩm, khoáng sản, thủ công mỹ nghệ, công nghiệp hàng tiêu dùng đi đôi với áp dụng công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm; chú ý phát triển các sản phẩm chế biến sâu, vừa tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, vừa tiết kiệm nguyên liệu, tài nguyên, góp phần cùng cả nước giảm nhập siêu.

Đa dạng hóa thị trường tiêu thụ: giữ vững thị trường truyền thống, tập trung thị trường trọng điểm; củng cố, mở rộng thị trường hiện có, khai thác các thị trường mới, chú trọng thị trường nội địa. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả chương trình hợp tác, đầu tư với các tỉnh Nam Lào. Củng cố và nâng cao vai trò của các hiệp hội ngành nghề, thành lập các hiệp hội mới (hiệp hội khai thác và chế biến khoáng sản xuất khẩu, hiệp hội xuất khẩu nông sản) nhằm liên kết, hỗ trợ nhau trong quá trình tổ chức sản xuất, xúc tiến thương mại và xuất khẩu. Chú trọng xây dựng thương hiệu các sản phẩm thế mạnh của tỉnh.

Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ thương mại đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa của các thành phần kinh tế, trong đó nâng cấp, xây dựng mới một số chợ nông thôn, miền núi; các cụm thương mại, dịch vụ ở các thị trấn, thị tứ, các điểm dân cư nông thôn và ở những địa bàn kinh tế thương mại trọng điểm của tỉnh.

Phát huy vai trò của thành phố Quy Nhơn là trung tâm thương mại, dịch vụ, giao dịch của tỉnh và khu vực, đồng thời phát triển các trung tâm thương mại - dịch vụ vùng: Bồng Sơn, An Nhơn, Phú Phong, Diêu Trì... Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại; tăng cường công tác quảng bá, giới thiệu sản phẩm, tiềm năng của tỉnh gắn với công tác xúc tiến đầu tư.

Chú trọng phát triển dịch vụ, nhất là dịch vụ vận tải biển qua các cảng Quy Nhơn, Thị Nại.... Tiếp tục hỗ trợ, khuyến khích phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động các loại hình dịch vụ: tài chính, ngân hàng, vận tải, bưu chính viễn thông, tư vấn, khoa học - công nghệ, bảo hiểm… theo hướng hiện đại.

b. Phát triển du lịch.

Phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh. Tích cực thu hút đầu tư, triển khai các dự án du lịch tuyến Quy Nhơn - Sông Cầu gắn với thành phố Quy Nhơn (Khu du lịch hồ Phú Hòa, Khu du lịch Mũi Tấn - Tượng Trần Hưng Đạo, Khu du lịch Ghềnh Ráng, các điểm du lịch dọc Quốc lộ 1D...), tuyến Quy Nhơn - Tam Quan với trọng điểm là Khu du lịch quốc gia Phương Mai - Núi Bà (các khu du lịch Trung Lương, Vĩnh Hội, Tân Thanh, Hải Giang, Nhơn Lý - Cát Tiến, Quần thể du lịch lịch sử - sinh thái và tâm linh tại khu vực chùa Linh Phong, các điểm du lịch từ Đề Gi đến Tam Quan...), tuyến Quy Nhơn - An Nhơn - Tây Sơn và phụ cận (các điểm du lịch văn hoá, lịch sử, Khu du lịch sinh thái Hồ Núi Một, Khu du lịch nghỉ dưỡng suối khoáng nóng Hội Vân...). Tập trung đầu tư hạ tầng phục vụ du lịch, ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch Tháp Bánh Ít, đường vào Bến Trường Trầu, đường vào Tháp Cánh Tiên; phát triển các sản phẩm du lịch; ngoài các tua (tour) du lịch hiện có, chú trọng phát triển các tua du lịch sinh thái, du lịch biển...; thành lập Hiệp hội Du lịch Bình Định; đẩy mạnh công tác xúc tiến du lịch; triển khai chương trình liên kết, hợp tác du lịch giữa Bình Định với các tỉnh thành phố trong nước, các tỉnh Nam Lào, các tỉnh Đông Bắc Thái Lan; phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác du lịch.

Tập trung đầu tư xây dựng hệ thống sản phẩm, loại hình du lịch đặc trưng, chất lượng cao trên cơ sở phát huy giá trị tài nguyên du lịch độc đáo, có giá trị, có thế mạnh của tỉnh. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để phát huy hiệu quả đầu tư, ưu tiên các dự án du lịch quy mô lớn, có bản sắc, nhất là các khu vui chơi giải trí, khu nghỉ dưỡng cao cấp... hấp dẫn du khách, có khả năng cạnh tranh và thu hút nhiều lao động.

Chú trọng đầu tư phát triển mạnh sản phẩm du lịch biển và du lịch văn hóa. Xây dựng các khu du lịch biển tầm cỡ khu vực, có chất lượng cao, các khu vui chơi giải trí cao cấp đủ khả năng cạnh tranh với các tỉnh, thành trong vùng và cả nước, từng bước đưa Quy Nhơn trở thành một trung tâm du lịch biển mới của khu vực miền Trung. Phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa gắn với các di tích lịch sử, danh thắng, lễ hội, du lịch làng nghề, ẩm thực; đồng thời, đầu tư khai thác, phát triển sản phẩm du lịch sinh thái núi, rừng, hồ, suối khoáng nóng, du lịch sinh thái nông nghiệp, du lịch cộng đồng để đa dạng hóa sản phẩm du lịch. Nghiên cứu đầu tư, mở rộng, phát triển một số loại hình du lịch mà Bình Định có tiềm năng và lợi thế như: du thuyền, caravan, du lịch MICE, du lịch giáo dục, du lịch chữa bệnh, du lịch tâm linh, du lịch ẩm thực...

Đến năm 2015, phấn đấu đạt 2.500.000 lượt khách/năm, trong đó khách quốc tế đạt 260.000 lượt, chiếm khoảng 10,4%; tăng số ngày lưu trú lên 2,5 ngày/lượt khách; tổng số cơ sở lưu trú đạt 4.000 phòng, trong đó có 2.700 phòng đạt tiêu chuẩn phục vụ khách quốc tế.

IV. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG.

Tích cực huy động và cân đối các nguồn vốn cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng: vốn ngân sách tỉnh (chủ yếu sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng kết cấu hạ tầng theo quy định của pháp luật), các nguồn vốn trong nhân dân, vốn của các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương, vốn của các bộ, ngành đầu tư trên địa bàn tỉnh. Tạo sự thông thoáng về quản lý hành chính để thu hút đầu tư. Coi trọng xã hội hóa đầu tư để tập trung phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng các khu, cụm công nghiệp.

Thực hiện tốt công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch; nhất là quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển và bảo vệ rừng, quy hoạch phát triển công nghiệp, du lịch, đô thị... đồng thời quan tâm giải quyết tốt vấn đề sản xuất và đời sống của nhân dân các vùng tái định cư. Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng của tỉnh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

Thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công, hoàn thành các công trình tuyến đường phía Tây tỉnh, đường Nguyễn Tất Thành (nối dài); đập đầu mối và hệ thống kênh mương đập dâng Văn Phong, hồ Đá Mài; sửa chữa, nâng cấp một số hồ chứa, đập dâng, đê sông, đê biển bị xuống cấp. Đến năm 2015, cơ bản hoàn thành kiên cố hóa kênh cấp 1 và 50% kênh cấp 2 và 3; đảm bảo 85% diện tích canh tác được tưới ổn định, chủ động. Hoàn thành đầu tư mở rộng xây dựng cảng cá và khu neo đậu tàu thuyền Tam Quan, Đề Gi, Quy Nhơn.

Xây dựng hệ thống cấp nước ngọt tại các vùng nuôi tôm trọng điểm Tuy Phước, Phù Mỹ, Hoài Nhơn. Hoàn thành các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn Đông Tuy Phước, Đông Nam Phù Cát, Tây Giang - Tây Thuận (Tây Sơn); Nhơn Hòa (An Nhơn); Đông Bắc và Đông Nam Hoài Nhơn, Phù Mỹ.

Nâng cấp mở rộng tuyến đường ven biển Quy Nhơn - Tam Quan; nâng cấp mở rộng tuyến Quốc lộ 19 đoạn từ Cảng Quy Nhơn đến giao Quốc lộ 1A (ngã ba cầu Bà Di). Đối với thành phố Quy Nhơn, hoàn thành đường Hoàng Văn Thụ (nối dài), đường Điện Biên Phủ, đường Hoa Lư, đường Tháp Đôi, đường Suối Trầu - Long Vân; mở rộng đường Hùng Vương từ ngã ba Phú Tài đến cầu Long Vân; nâng cấp, mở rộng tuyến đường nối Quốc lộ 1D với ngã ba Ông Thọ và Cụm công nghiệp Nhơn Bình. Xây dựng cầu nối khu dân cư đảo 1B Bắc sông Hà Thanh với khu Đông Điện Biên Phủ; xây dựng cầu Hưng Thạnh.

Đầu tư xây dựng nâng cấp các cảng, bến cảng của tỉnh theo Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

Hoàn thành công trình Dự án vệ sinh môi trường thành phố Quy Nhơn, các dự án xử lý chất thải trên địa bàn tỉnh… Tiếp tục nâng cấp và bê tông hóa các tuyến đường tỉnh lộ, đường liên vùng, liên xã và trục chính của xã.

V. PHÁT TRIỂN CÁC VÙNG LÃNH THỔ.

Phát huy thế mạnh của từng vùng; tăng cường sự liên kết, phối hợp giữa các vùng trong phát triển, từng bước giảm bớt chênh lệch về trình độ phát triển và mức sống của dân cư giữa các vùng. Có chính sách hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn.

1. Đối với vùng đô thị.

Phát triển đô thị phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, theo quy hoạch và mở về không gian. Từng bước đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đô thị trên địa bàn tỉnh. Đến năm 2015, tỷ lệ đô thị hóa đạt 40%. Chú trọng tính thẩm mỹ, dân tộc và hiện đại trong quy hoạch và phát triển đô thị.

Quy hoạch phát triển thành phố Quy Nhơn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050; quy hoạch và đầu tư xây dựng Khu đô thị mới Nhơn Hội; xây dựng thị trấn Phú Phong thành đô thị loại IV trước năm 2015; xây dựng An Nhơn, Bồng Sơn thành thị xã; triển khai quy hoạch huyện lỵ Hoài Nhơn mới. Phát triển hệ thống đô thị theo các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, đường ven biển. Có cơ chế chính sách hợp lý huy động các nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân để phát triển nhà ở, nhằm tăng nhanh quỹ nhà ở phục vụ nhu cầu của nhân dân, đặc biệt là phát triển nhà xã hội tại thành phố Quy Nhơn và các thị xã, các khu công nghiệp tập trung, nhà ở cho người bị giải toả, tái định cư và phát triển các khu dân cư nông thôn.

2. Đối với vùng đồng bằng.

Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển nông nghiệp đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Tiếp tục xây dựng các vùng thâm canh, chuyên canh cây công nghiệp, cây ngắn ngày, vùng sản xuất lúa chất lượng cao. Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hình thức trang trại, gia trại; đầu tư phát triển các khu, cụm công nghiệp, dịch vụ, du lịch; khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, làng nghề mới, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và các cơ sở chế biến nhỏ ở nông thôn.

Chú trọng phát triển công nghiệp, dịch vụ, đào tạo nghề cho lao động nông thôn; giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp trong cơ cấu lao động xã hội; góp phần đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, hạn chế tình trạng nông dân bỏ sản xuất ra các vùng đô thị tìm việc làm.

Đẩy mạnh xây dựng các khu đô thị, khu dân cư theo quy hoạch. Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông, thủy lợi, điện, nước sinh hoạt; xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.

3. Đối với vùng trung du, miền núi.

Tiếp tục đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông, thủy lợi, điện, nước sinh hoạt. Thực hiện việc lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia với triển khai đề án giảm nghèo nhanh và bền vững 3 huyện miền núi của tỉnh theo Nghị quyết 30a của Chính phủ. Đến năm 2015, giảm tỷ lệ hộ nghèo 3 huyện miền núi xuống ngang bằng mức trung bình các huyện trung du của tỉnh; chống tái nghèo; không để xảy ra tình trạng thiếu đói giáp hạt trong đồng bào dân tộc thiểu số; thu hẹp dần khoảng cách giàu nghèo giữa miền núi và đồng bằng; phấn đấu thu nhập bình quân đầu người từ 8 - 10 triệu đồng/năm.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, ổn định định canh, định cư, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ rừng gắn với trồng rừng phòng hộ, rừng nguyên liệu giấy, gỗ, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc. Quy hoạch phát triển các vùng chuyên canh cây trồng phục vụ công nghiệp chế biến; phát triển du lịch, dịch vụ ở khu vực miền núi phía Tây của tỉnh.

4. Đối với vùng biển và ven biển.

Phát triển kinh tế vùng ven biển theo định hướng Chiến lược kinh tế biển quốc gia đến năm 2020, tương xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh. Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế biển và ven biển, tạo sự chuyển biến cơ bản và toàn diện cơ cấu kinh tế biển và vùng ven biển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đến năm 2020, GDP vùng biển và ven biển chiếm 70% GDP toàn tỉnh, bình quân thu nhập đầu người gấp 2 lần hiện nay.

Tiếp tục đầu tư xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, hệ thống đê sông, đê biển, hạ tầng nuôi trồng thủy sản, các khu neo đậu tàu thuyền tránh trú bão và các công trình hạ tầng nông thôn khác để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế vùng ven biển. Rà soát, bổ sung quy hoạch, triển khai đầu tư dọc tuyến đường ven biển các cụm, điểm công nghiệp, các khu dân cư tập trung, các điểm dịch vụ du lịch; các vùng nuôi trồng, chế biến hải sản, các cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá.

Tập trung xây dựng Trung tâm khai thác, chế biến thủy sản và dịch vụ hậu cần nghề cá tại thôn Vĩnh Lợi, Mỹ Thành, Phù Mỹ. Xây dựng các cảng cá: Đề Gi, Tam Quan; các bến cá: Hoài Hương, Tân Phụng, Xuân Thạnh, Nhơn Lý, Nhơn Hải theo Quy hoạch hệ thống bến cá, cảng cá Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

Hạn chế tối đa việc nuôi tôm trên cát, nuôi tôm công nghiệp trên đầm Thị Nại; tiến hành khôi phục rừng ngập mặn, rừng phòng hộ để bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển du lịch. Quản lý chặt chẽ quy hoạch, quy trình khai thác khoáng sản, đảm bảo môi trường; giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội, thực hiện các chính sách xóa đói, giảm nghèo, tạo sự chuyển biến rõ nét về kinh tế - xã hội vùng ven biển.

Tập trung đầu tư nâng cấp, hoàn thiện các công trình chuyển tiếp và phát triển các công trình, dự án mới phục vụ trực tiếp nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và bảo đảm đời sống, công tác của bộ đội và nhân dân trên xã đảo Nhơn Châu và các bán đảo. Tiếp tục hỗ trợ có trọng điểm xã đảo và các bán đảo, địa phương ven biển, đặc biệt là xã đảo Nhơn Châu.

VI. KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ.

Tiếp tục đầu tư chiều sâu, mở rộng và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các tổ chức, cá nhân đầu tư vào các hoạt động công ích và dịch vụ công, đầu tư kinh doanh hạ tầng kinh tế - xã hội và các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục thể thao.

Chăm lo phát triển kinh tế tập thể; tiếp tục đổi mới hoạt động của các hợp tác xã theo hướng thực sự là đơn vị kinh doanh có chức năng kinh tế và xã hội. Tạo điều kiện phát triển các trang trại ở nông thôn và hình thành hợp tác xã của các chủ trang trại. Phát triển các hình thức hợp tác đa dạng trong các lĩnh vực. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho kinh tế tập thể phát triển.

Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở các ngành, các lĩnh vực theo quy định của pháp luật. Tích cực thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào một số ngành, lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ cao.

Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trang trại, hộ sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong nông nghiệp và khu vực nông thôn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp với hình thức sở hữu hỗn hợp như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên, công ty hợp doanh, hợp tác xã cổ phần. Chú trọng phát triển các thành phần kinh tế đi đôi với giải quyết tốt vấn đề công bằng xã hội.

VII. PHÁT TRIỂN CÁC LĨNH VỰC XÃ HỘI.

1. Về giáo dục - đào tạo.

Tạo bước chuyển biến rõ rệt về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội cho thanh thiếu niên và học sinh. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Đổi mới công tác quản lý giáo dục trong các nhà trường. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội đối với việc phối hợp với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ.

Giữ vững chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và trung học cơ sở; tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục bậc trung học ở những nơi đủ điều kiện; triển khai thực hiện tốt chương trình phổ cập mầm non 5 tuổi.

Huy động trẻ em trong độ tuổi đi nhà trẻ đến lớp đạt 60% vào năm 2015; trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo đến lớp đạt 100%; các em trong độ tuổi đi học phổ thông đến trường (trường phổ thông và trường hướng nghiệp dạy nghề và các loại hình trường lớp khác) đạt 100% vào 2015.

Tiếp tục đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật các cơ sở giáo dục - đào tạo, đặc biệt là đầu tư nâng cấp, mở rộng Trường chuyên Lê Quý Đôn; thực hiện chương trình kiên cố hóa trường, lớp và xây dựng nhà ở công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008 - 2012 và những năm tiếp theo; xây dựng ký túc xá cho học sinh nội trú, sinh viên.

Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học, công nghệ, doanh nhân, công nhân. Ưu tiên đầu tư từ ngân sách tỉnh cho phát triển giáo dục - đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.

Bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện chính sách hỗ trợ đối với con em gia đình có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn. Thực hiện tốt việc phân luồng đào tạo sau trung học cơ sở để chuyển một bộ phận học sinh sang học nghề.

Nâng cấp Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật Bình Định thành Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Bình Định, Trường Trung học Văn hóa - Nghệ thuật thành Trường Cao đẳng Văn hóa - Nghệ thuật và Du lịch; xây dựng Trường Cao đẳng Nghề đạt chuẩn trường trọng điểm quốc gia, phấn đấu đến năm 2015 thành Trường Đại học Công nghệ. Đầu tư xây dựng Trường Trung cấp nghề Thủ công mỹ nghệ Quy Nhơn.

2. Về khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường.

a) Về khoa học, công nghệ.

Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất và đời sống, phát triển khoa học xã hội và nhân văn. Khuyến khích đổi mới khoa học, công nghệ trong các doanh nghiệp. Đầu tư xây dựng Trung tâm công nghệ thông tin của tỉnh, áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước và các hoạt động kinh doanh, dịch vụ. Tập trung nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học nhằm nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, xử lý chất thải trong công nghiệp, sinh hoạt, bảo vệ môi trường sinh thái... Chú trọng công tác bảo vệ gen và đa dạng sinh học, đồng thời từng bước nghiên cứu đưa các giống cây, con biến đổi gen, giống cấy mô có chất lượng tốt vào sản xuất. Tiếp tục thực hiện chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao, thu hút nhân tài, nhất là các chuyên gia đầu ngành; tạo mọi điều kiện thuận lợi để cán bộ khoa học lao động, sáng tạo, cống hiến.

Thực hiện các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng để hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư đổi mới và ứng dụng các công nghệ tiên tiến và xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm của Bình Định, hướng các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, sản xuất có hiệu quả nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp tìm đến khoa học và công nghệ tiên tiến.

Tạo điều kiện thuận lợi trong việc thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển công nghệ ở các doanh nghiệp, mở rộng hệ thống tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ và liên kết, liên doanh trong hoạt động khoa học và công nghệ.

Tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Từ nay đến năm 2015, đảm bảo mức tăng chi cho khoa học và công nghệ từ ngân sách địa phương hàng năm bằng hoặc cao hơn mức tăng chi thường xuyên ngân sách tỉnh và đạt mức bình quân hàng năm trên 2% tổng chi thường xuyên ngân sách tỉnh.

Khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế tư nhân trích một phần vốn dành cho công tác nghiên cứu, đổi mới công nghệ và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ.

b. Về bảo vệ môi trường.

Tăng cường công tác bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức, trách nhiệm của tổ chức và công dân trong việc giữ gìn, bảo vệ môi trường và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm. Kiểm tra chặt chẽ báo cáo đánh giá tác động môi trường trước khi phê duyệt các dự án đầu tư. Quản lý khai thác tài nguyên thiên nhiên hiệu quả, tiết kiệm, đảm bảo cân bằng sinh thái và an sinh xã hội. Quản lý chặt chẽ chất thải, nhất là chất thải nguy hại trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ, y tế. Kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp; tăng cường công tác xử lý rác thải tại các đô thị và khu dân cư tập trung. Giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay ở các khu, cụm công nghiệp, các cơ sở sản xuất; phục hồi hệ sinh thái đã bị suy thoái do tác động của môi trường. Đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường. Đào tào nguồn nhân lực bảo vệ môi trường.

Đến năm 2015, 100% khu công nghiệp đã đi vào hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; thu gom và xử lý chất thải y tế, rác thải sinh hoạt đô thị, chất thải rắn công nghiệp không nguy hại; thu gom và xử lý chất thải nguy hại.

Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, chương trình, dự án. Các dự án mới phải tuân thủ yêu cầu về bảo vệ môi trường. Theo dõi, giám sát và kiểm tra chặt chẽ việc tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường sau đánh giá tác động môi trường của các dự án đầu tư; việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, máy móc thiết bị đã qua sử dụng, kinh doanh sử dụng hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật và phân bón.

Thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu. Có giải pháp cơ bản, chủ động phòng tránh, hạn chế thiệt hại do bão lũ. Trong đó, chú trọng chỉ đạo công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng phòng hộ đầu nguồn; củng cố các hồ chứa thuỷ lợi, thuỷ điện; đảm bảo an toàn dân cư vùng phía Tây của tỉnh và vùng ven biển, vùng có nguy cơ thường bị sạt lở; quan tâm hơn nữa việc đảm bảo an toàn cho ngư dân đánh bắt xa bờ dài ngày trên biển.

3. Chăm lo phát triển sự nghiệp văn hóa, thông tin - truyền thông, thể dục - thể thao.

Nâng cao chất lượng phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa"; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Triển khai thực hiện Cuộc vận động xây dựng gia đình Việt Nam.

Tiếp tục đầu tư xây dựng, tôn tạo, bảo vệ các di tích văn hóa, lịch sử, di tích cách mạng và kháng chiến, danh lam thắng cảnh; xây dựng các công trình, thiết chế văn hoá ở cơ sở; đầu tư xây dựng mới Bảo tàng Tổng hợp tỉnh, đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất cho Nhà hát Tuồng Đào Tấn và Đoàn ca kịch bài chòi... Chú trọng và phát huy nghệ thuật tuồng và võ Bình Định.

Thực hiện xã hội hóa một số hoạt động trên lĩnh vực văn hóa. Nâng cao chất lượng, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động báo chí, phát thanh, truyền hình. Đầu tư xây dựng Trung tâm công nghệ thông tin của tỉnh, áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước và các hoạt động kinh doanh, dịch vụ. Phát huy tính năng động, sáng tạo của nhân dân, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Quan tâm phát hiện, bồi dưỡng các tài năng văn học - nghệ thuật; khuyến khích các văn nghệ sĩ sáng tạo nhiều tác phẩm văn học - nghệ thuật có giá trị, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc, công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác.

Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa - nghệ thuật, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc và địa phương với phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Bình Định, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà.

Phát triển sâu rộng phong trào thể dục thể thao quần chúng; tiếp tục đẩy mạnh phong trào toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại. Tập trung xây dựng đội ngũ huấn luyện viên, vận động viên, phát triển một số bộ môn thể thao thành tích cao có lợi thế của tỉnh. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ hoạt động thể dục thể thao, nhất là ở cấp huyện và cơ sở. Đẩy mạnh xã hội hóa trên lĩnh vực thể dục, thể thao.

4. Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em.

Nâng cao chất lượng công tác y tế dự phòng và bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về phòng, chống một số bệnh dịch nguy hiểm, bệnh xã hội. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và y đức cho đội ngũ y, bác sĩ, nhân viên y tế.

Tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đi đôi với đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn giỏi cho Bệnh viện Đa khoa tỉnh nhằm giữ vững chuẩn bệnh viện hạng I. Đầu tư xây dựng, nâng cấp Bệnh viện Đa khoa thành phố Quy Nhơn; đầu tư mở rộng các bệnh viện khu vực Phú Phong, Bồng Sơn; xây dựng Bệnh viện sản nhi, Khu điều trị kỹ thuật cao, Trung tâm y tế dự phòng, Trung tâm phòng chống sốt rét, Trung tâm phòng chống HIV/AIDS và Trung tâm da liễu, Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm; tạo điều kiện cho mọi người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu và tiếp cận các dịch vụ y tế có chất lượng cao.

Tăng cường đầu tư phương tiện và cơ sở vật chất cho các trung tâm y tế, trạm y tế, từng bước đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh thông thường cho nhân dân. Đến năm 2015, 98% số trạm y tế xã có bác sĩ; 98% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về vệ sinh an toàn thực phẩm, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Quản lý chặt chẽ thị trường thuốc chữa bệnh và hành nghề y tế tư nhân. Tiếp tục thực hiện xã hội hóa công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Khuyến khích đầu tư xây dựng Trung tâm chẩn đoán y khoa chất lượng cao theo hướng xã hội hóa.

Thực hiện nghiêm chính sách và pháp luật về dân số, duy trì mức sinh hợp lý, quy mô gia đình ít con. Làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ bà mẹ và trẻ em; giảm tỉ suất sinh hàng năm 0,2-0,3‰; giảm tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới mức 17%; bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; ngăn ngừa nạn bạo hành trong gia đình và nguy cơ xâm hại trẻ em. Triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ; tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

5. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội.

Thực hiện có hiệu quả các chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo. Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nghề; chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo nghề. Gắn công tác đào tạo nghề với nhu cầu lao động cho các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế, nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, phục vụ xuất khẩu lao động; phấn đấu đến năm 2015, lao động nông nghiệp chiếm khoảng 52% trong tổng lao động xã hội để đến năm 2020 còn 37%. Mở rộng, đa dạng hoá các hình thức tư vấn, giới thiệu việc làm, xuất khẩu lao động. Tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ người lao động tự tìm, tạo việc làm cho mình và cho người khác; tăng đầu tư nguồn vốn giải quyết việc làm của tỉnh; hình thành quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động. Phấn đấu mỗi năm giải quyết việc làm mới cho 25 - 30 nghìn lao động.

Triển khai thực hiện đề án giảm nghèo nhanh và bền vững 3 huyện miền núi gắn với các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn của tỉnh. Đa dạng hoá hình thức huy động các nguồn vốn hỗ trợ người nghèo; tạo điều kiện và khuyến khích những người thoát nghèo vươn lên làm giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo.

Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa”, xây dựng “Quỹ Đền ơn, đáp nghĩa”. Chăm lo những người và gia đình có công, tạo điều kiện và khuyến khích người và gia đình có công tích cực tham gia phát triển kinh tế, hoạt động xã hội, có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn. Thực hiện kịp thời các chính sách trợ giúp các đối tượng xã hội, nâng cao hiệu quả công tác cứu trợ, các hoạt động nhân đạo, từ thiện. Bảo đảm cho các đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục và triển khai các biện pháp đấu tranh phòng, chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội.

VIII. ĐẢM BẢO QUỐC PHÒNG - AN NINH, XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN VỮNG MẠNH.

1. Tăng cường quốc phòng - an ninh.

Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức to lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc... Chú trọng xây dựng thế trận lòng dân và củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ở những địa bàn trọng điểm. Tăng cường chức năng quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh ngay trong từng quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; gắn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển, miền núi của tỉnh với củng cố thế trận quốc phòng an ninh tuyến núi, tuyến ven biển; bảo vệ vững chắc an ninh, chủ quyền biển, đảo.

Từng bước đầu tư xây dựng các công trình quốc phòng ở khu vực trọng điểm theo kế hoạch phòng thủ của tỉnh. Bổ sung, điều chỉnh kịp thời hệ thống phòng thủ từ tỉnh đến cơ sở. Phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng quân sự, công an, biên phòng và các lực lượng liên quan trong việc tăng cường kiểm tra, kiểm soát nắm chắc tình hình địa bàn, chủ động phòng chống và làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động bất ngờ, giữ vững ổn định chính trị ở địa phương.

Nâng cao chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang tỉnh. Xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân từ tỉnh đến các huyện, thành phố theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; củng cố lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên có số lượng hợp lý, chất lượng ngày càng cao, làm tốt nhiệm vụ tham gia bảo vệ trị an và sẵn sàng động viên khi có tình huống; tham gia phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn… Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, diễn tập, tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ và thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.

Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tập trung đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh cả bên trong và bên ngoài. Chủ động phát hiện và xử lý kịp thời các đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn chống đối có ý đồ tạo dựng ngọn cờ, hình thành tổ chức chính trị đối lập, các băng nhóm tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức; hạn chế thấp nhất tội phạm ở lứa tuổi thanh thiếu niên; ngăn chặn có hiệu quả tội phạm ma túy, các tệ nạn xã hội, tội phạm gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ; áp dụng đồng bộ các biện pháp kiềm chế tai nạn giao thông. Tập trung củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; giữ vững ổn định chính trị; phát hiện và xử lý kịp thời những vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo, an ninh nông thôn, không để xảy ra bất ngờ, bị động; tăng cường công tác hòa giải, giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân; ổn định tình hình, không để xảy ra “điểm nóng”.

2. Xây dựng chính quyền vững mạnh.

Tập trung củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của cơ quan chính quyền các cấp; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính đi đôi với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy công quyền những cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất, thay thế kịp thời những người không đáp ứng được yêu cầu công việc.

Kiên quyết đấu tranh phòng chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng. Thực hiện công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước; công khai, minh bạch trong phê duyệt các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước và các nguồn huy động đóng góp của nhân dân; trong quản lý sử dụng đất đai, tài sản công; trong công tác tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ; thực hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định; có biện pháp phòng ngừa việc chạy chức, chạy quyền trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, trọng tâm là đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính, loại bỏ các thủ tục gây phiền hà cho tổ chức và công dân, nhất là đối với một số lĩnh vực đang có nhiều bức xúc như: cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy phép đăng ký đầu tư, quyền sở hữu nhà ở, giấy phép xây dựng, đăng ký kinh doanh… Thực hiện xã hội hóa một số dịch vụ công phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quy hoạch, đầu tư xây dựng Trung tâm hành chính của tỉnh.

Tiếp tục thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra cấp tỉnh, cấp huyện; nâng cao trình độ, năng lực, đạo đức nghề nghiệp đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp; giải quyết đúng pháp luật, thẩm quyền những khiếu kiện liên quan đến hoạt động tư pháp.

IX. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU.

1. Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hóa và quy hoạch.

Trên cơ sở kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 của tỉnh, các ngành và địa phương xây dựng kế hoạch 5 năm và từng năm. Nội dung kế hoạch phải có giải pháp cụ thể, hiện thực với tinh thần phấn đấu cao nhưng không chủ quan, duy ý chí. Có chương trình kiểm tra cụ thể việc triển khai kế hoạch.

Căn cứ quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020, các ngành xây dựng quy hoạch phát triển của ngành làm căn cứ cho đầu tư phát triển. Trong quá trình triển khai, phải căn cứ các quy hoạch để thực hiện. Nếu trong quá trình triển khai cần có sự thay đổi cho phù hợp với thực tế thì kiến nghị chỉnh sửa cho phù hợp.

2. Giải pháp về huy động vốn.

Đẩy mạnh thu ngân sách, phấn đấu thu ngân sách đến năm 2015 đạt trên 5.500 tỷ đồng. Trong 5 năm, huy động vốn đầu tư trên địa bàn 98.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 43% GDP và gấp 2 lần so với giai đoạn 5 năm trước (từ các nguồn tiết kiệm chi tiêu ngân sách, vốn cấp quyền sử dụng đất, công trái Chính phủ và địa phương, trái phiếu công trình, tín dụng đầu tư, vốn hỗ trợ đầu tư của Trung ương, các chương trình mục tiêu quốc gia, vốn ODA, vốn huy động trong dân và nhất là vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước).

3. Giải pháp về thị trường.

Đẩy mạnh việc cải thiện môi trường cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh; giải quyết đồng bộ từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ một số sản phẩm chủ yếu đang có sức cạnh tranh hoặc có điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh; chủ động và có lộ trình hợp lý hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.

Tích cực phát triển thị trường nông thôn nhằm thực hiện tốt việc tiêu thụ hàng hoá nông sản cho nông dân và tạo điều kiện phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Có biện pháp kích thích sức mua của dân, nhất là ở vùng nông thôn như cung cấp tín dụng xây dựng nhà ở, trang thiết bị kỹ thuật, hàng tiêu dùng.

Phổ biến kịp thời thông tin kinh tế, nhất là cơ chế, chính sách. Tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của các thành phần kinh tế. Thực hiện tích cực công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật, khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm. Tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Phấn đấu hoàn thành tốt các mục tiêu, chỉ tiêu Kế hoạch phát triển thương mại điện tử tỉnh Bình Định giai đoạn 2011 - 2015.

Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, xây dựng chiến lược đầu tư theo định hướng xuất khẩu, chương trình xúc tiến thị trường xuất khẩu và Đề án phát triển hàng xuất khẩu. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu. Thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

4. Đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, tạo ra bước đột phá về năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Áp dụng công nghệ tiên tiến trong công nghệ chế biến, công nghệ sản xuất vật liệu mới. Giải quyết căn bản các vấn đề về giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao và có giá trị hàng hóa xuất khẩu mà Bình Định có lợi thế. Tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm.

Xây dựng và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của tỉnh. Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học công nghệ trong các lĩnh vực công nghệ, quản trị, kinh doanh, bảo vệ môi trường. Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác quản lý khoa học công nghệ, đáp ứng kịp thời công tác nghiên cứu, triển khai và điều tra cơ bản. Tạo điều kiện cho cán bộ khoa học có cơ hội tham gia phát triển năng lực nghiên cứu khoa học. Có chính sách thích đáng để thu hút cán bộ khoa học và công nhân giỏi, kể cả cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về hợp tác nghiên cứu, tham gia xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đầu tư thích đáng vào việc khai thác có hiệu quả mạng lưới thông tin khoa học - công nghệ trên cơ sở áp dụng tin học. Đổi mới cách tiếp cận công tác khoa học - công nghệ theo các hướng dẫn và tiêu chuẩn quốc tế để làm tốt công tác quản lý khoa học - công nghệ trong quá trình hội nhập với thế giới và khu vực.

5. Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực.

Xây dựng Đề án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đến năm 2015 định hướng đến năm 2020. Chú trọng công tác đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ, công chức các ngành, các cấp về các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đáp ứng được yêu cầu đặt ra đối với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

Sửa đổi, bổ sung các chính sách ưu đãi để thu hút người tài và lao động có kỹ thuật cao làm việc lâu dài ở Bình Định. Đồng thời thực hiện tốt việc đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

6. Tăng cường hợp tác.

Tăng cường hợp tác với thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh lân cận, các tỉnh của Nam Lào và Đông Bắc Campuchia có lợi thế tương đồng để tạo điều kiện cho nhau phát triển, nhằm:

Phối hợp trong xây dựng, cung cấp thông tin phục vụ cho công tác dự báo; đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế.

Phối hợp trong đầu tư, tránh đầu tư chồng chéo không hiệu quả. Tạo điều kiện khai thác, trồng cây nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến.

Hợp tác trong lĩnh vực thương mại, du lịch.

7. Nâng cao năng lực điều hành của bộ máy quản lý nhà nước, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính.

Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước các cấp là yêu cầu bức xúc, có ý nghĩa quyết định đến thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội.

Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cấp, từng cá nhân; phân cấp mạnh cho các ngành và cấp dưới đảm bảo điều hành quản lý nhà nước có hiệu quả hơn và theo đúng quy định của pháp luật. Thường xuyên theo dõi và kiểm tra năng lực, phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức, đẩy lùi và xử lý tệ quan liêu, tham nhũng, thiếu trách nhiệm. Sự điều hành của các ngành, các cấp phải tập trung vào các chương trình trọng điểm có tính đột phá để bảo đảm thành công các mục tiêu đề ra.

Thực hiện tốt cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” ở các cơ quan nhà nước. Có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan với nhau, phân công trách nhiệm rõ ràng, tránh chồng chéo và đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.

Quy trình cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đầu tư, giải quyết các thủ tục xây dựng, đất đai, môi trường cho nhà đầu tư đảm bảo công khai, minh bạch, đúng thủ tục và phấn đấu rút ngắn thời gian, tránh phiền hà cho doanh nghiệp, cho tổ chức và công dân./.

 

 

FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN

 

 

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 440/QĐ-UBND

Loại văn bảnQuyết định
Số hiệu440/QĐ-UBND
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành01/09/2011
Ngày hiệu lực01/09/2011
Ngày công báo...
Số công báo
Lĩnh vựcVăn hóa - Xã hội, Thương mại
Tình trạng hiệu lựcCòn hiệu lực
Cập nhật13 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Download Văn bản pháp luật 440/QĐ-UBND

Lược đồ Quyết định 440/QĐ-UBND 2011 Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2011 2015 Bình Định


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản sửa đổi, bổ sung

        Văn bản bị đính chính

          Văn bản được hướng dẫn

            Văn bản đính chính

              Văn bản bị thay thế

                Văn bản hiện thời

                Quyết định 440/QĐ-UBND 2011 Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2011 2015 Bình Định
                Loại văn bảnQuyết định
                Số hiệu440/QĐ-UBND
                Cơ quan ban hànhTỉnh Bình Định
                Người kýLê Hữu Lộc
                Ngày ban hành01/09/2011
                Ngày hiệu lực01/09/2011
                Ngày công báo...
                Số công báo
                Lĩnh vựcVăn hóa - Xã hội, Thương mại
                Tình trạng hiệu lựcCòn hiệu lực
                Cập nhật13 năm trước

                Văn bản thay thế

                  Văn bản được dẫn chiếu

                    Văn bản hướng dẫn

                      Văn bản được hợp nhất

                        Văn bản gốc Quyết định 440/QĐ-UBND 2011 Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2011 2015 Bình Định

                        Lịch sử hiệu lực Quyết định 440/QĐ-UBND 2011 Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2011 2015 Bình Định

                        • 01/09/2011

                          Văn bản được ban hành

                          Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                        • 01/09/2011

                          Văn bản có hiệu lực

                          Trạng thái: Có hiệu lực