Quyết định 90/QĐ-VKSTCC-V9

Quyết định 90/QĐ-VKSTCC-V9 năm 2013 phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011- 2020 do Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành

Nội dung toàn văn Quyết định 90/QĐ-VKSTCC-V9 năm 2013 phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực


VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 90/QĐ-VKSTC-V9

Hà Nội, ngày 12 tháng 3 năm 2013

 

QUYẾT ĐỊNH

PHÊ DUYỆT QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN GIAI ĐOẠN 2011 -2020

VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

Căn cứ Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002;

Căn cứ Luật Giáo dục ngày 14/06/2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục ngày 25/11/2009;

Căn cứ Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;

Căn cứ Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 30/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội giai đoạn 2011-2015;

Xét đề nghị của Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ.

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1. Phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011-2020 kèm theo Quyết định này.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký và thay thế Quyết định số 77/QĐ-VKSTC-V9 ngày 01/3/2012 của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Điều 3. Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát Quân sự Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

 


Nơi nhận:
- Thủ tướng Chính phủ (để b/c);
- Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân ( để b/c);
- Ban chỉ đạo CCTP Trung ương( để b/c);
- Ủy ban Tư pháp Quốc hội ( để b/c);
- Văn phòng Chính phủ;
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
- Bộ Nội vụ;
- Bộ Giáo dục và Đào tạo;
- Các đ/c Lãnh đạo VKSNDTC;
- Như Điều 3 (để t/h);
- Lưu VT,V9.

KT.VIỆN TRƯỞNG
PHÓ VIỆN TRƯỞNG




Bùi Mạnh Cường

 

QUY HOẠCH

PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN GIAI ĐOẠN 2011 -2020
(Ban hành kèm theo Quyết định số 90/QĐ-VKSTC-V9 ngày 12/3/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao)

Phần mở đầu

I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG QUY HOẠCH

Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng đã xác định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2011-2020, theo đó phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là khâu đột phá mang tính chiến lược, bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Trong lĩnh vực tư pháp, Bộ Chính trị đã có Kết luận số 79-KL/TW, ngày 28/7/2010 về việc thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Việc triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội cũng như Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng đặt ra yêu cầu phát triển nhân lực của đất nước và của từng ngành, lĩnh vực và từng địa phương, đơn vị. Trong tiến trình cải cách tư pháp, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân đã được tăng cường, nhất là trong lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính.

Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020; Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 Phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 2322/TTg - KGVX ngày 12/12/2011 đồng ý bổ sung Quy hoạch phát triên nhân lực ngành Kiêm sát nhân dân vào Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020.

Vì vậy, ngành Kiểm sát nhân dân cần xây dựng Quy hoach phát triển nhân lực giai đoạn 2011-2020 để triển khai thực hiện theo Quy hoạch chung của cả nước và xây dựng nguồn nhân lực của Ngành trong giai đoạn mới.

II. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI QUY HOẠCH

1. Mục đích

Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011-2020 là cơ sở cho việc xây dựng Kế hoạch 5 năm và hàng năm phát triển nhân lực của Ngành. Trên cơ sở mục tiêu và giải pháp thực hiện quy hoạch đã được phê duyệt để xây dựng cơ chế, đề xuất chính sách và tổ chức các hoạt động cụ thể nhằm phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và yêu cầu hội nhập quốc tế.

2. Yêu cầu

- Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011-2020 phải căn cứ và phù hơp với quan điểm của Đảng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2011-2020; phù hợp vói Chiến lược cải cách tư pháp, Chiến lược phát triển nhân lực, Chiến lược phát triển giáo dục của Việt Nam đến năm 2020;

- Thể hiện rõ quyết tâm, cam kết của ngành Kiểm sát nhân dân về nhận thức và hành động thực tế để phát triển nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của Ngành trong giai đoạn sắp tới;

- Đánh giá đầy đủ, toàn diện về hiện trạng phát triển nhân lực về số lượng, chất lượng, trong đó xác định rõ những điểm mạnh, những hạn chế, yếu kém của nhân lực so với nhu cầu phát triển; những biện pháp đã thực hiện và rút ra bài học kinh nghiệm; đề xuất hướng khắc phục trong thờigian tới;

- Quy hoạch phải mang tính thực tiễn, có tính khả thi cao;

- Đề xuất được định hướng phát triển, nhất là giải pháp và bước đi cụ thể để thực hiện quy hoạch.

3. Đối tượng, phạm vi quy hoạch

Bao gồm toàn bộ nhân lực của ngành Kiểm sát nhân dân với những nội dung phát triển về số lượng, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, tin học và việc sử dụng nhân lực, trong đó đặc biệt quan tâm đến nhóm đối tượng có vai trò quyết đinh và đột phá trong việc phát triển nhân lực và phát triển ngành.

III. NHỮNG CĂN CỨ CHỦ YẾU ĐỂ XÂY DỰNG QUY HOẠCH

- Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002;

- Luật Giáo dục ngày 14 tháng 6 năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một sổ điều của Luật Giáo dục ngày 25 tháng 11 năm 2009;

- Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020;

- Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020;

- Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020.

- Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 30/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội giai đoạn 2011- 2015;

- Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 13 về công tác phòng, chống vi phạm và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án;

- Thông báo số 116- TB/TW ngày 27/12/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Kết luận của Bộ Chính trị tại phiên họp ngày 21/12/2012, về việc đào tạo cán bộ của ngành Tòa án nhân dân và ngành Kiểm sát nhân dân.

IV. KẾT CẤU CỦA QUY HOẠCH

- Phần thứ nhất: Hiện trạng nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân;

- Phần thứ hai: Phương hướng phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011-2020;

- Phần thứ ba: Những giải pháp phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011-2020.

Phần thứ nhất

HIỆN TRẠNG NHÂN LỰC NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN

I. HIỆN TRẠNG NHÂN LỰC

1. Quy mô nhân lực

1.1. Về số lượng

Tổng biên chế ngành Kiểm sát nhân dân được giao theo Nghị quyết số 522e/NQ-UBTVQH13 ngày 16/8/2012 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 13 là 15.860 người, trong đó:

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao: 920 người (chiếm 5,81%);

- Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh : 4.353 người (chiếm 27,44%);

- Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện: 10.587 người (chiếm 66,75%).

Tính đến tháng 11/2012, đã thực hiện biên chế: 13.525 người. Số biên chế còn thiếu chủ yếu ở VKSND cấp huyện thuộc một số tỉnh vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, do yêu cầu về tuyển dụng công chức ngành Kiểm sát nhân dân là ứng viên phải có bằng tốt nghiệp đại học luật hệ chính quy, nhưng những nơi này thiếu nguồn tuyển dụng; chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ngành Kiểm sát nhân dân chưa đủ hấp dẫn để thu hút nhân lực.

So với nhu cầu nhân lực để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, nhất là việc bổ sung các nhiệm vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung), Luật Tố tụng hành chính, Luật thi hành án hình sự, Luật thi hành án dân sự...thì nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân còn thiếu rất nhiều. Hiện nay, bình quân mỗi VKSND cấp huyện có 10 biên chế, trong đó 7- 8 biên chế làm nghiệp vụ kiểm sát, trong khi đó VKSND cấp huyện phải thực hiện rất nhiều khâu công tác nghiệp vụ (thực hành quyền công tố và kiểm sát giải quyết án hình sự; kiểm sát giải quyết án dân sự; kiểm sát giải quyết án hành chính; kiểm sát công tác tạm giữ, tạm giam; kiểm sát thi hành án hình sự, dân sự; kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác văn phòng, tổng hơp, thống kê tội phạm), như vậy bình quân mỗi khâu công tác chỉ có 1 người thực hiện. Qua khảo sát còn cho thấy, có đơn vị VKSND cấp huyện hiện nay bình quân mỗi năm thụ lý thực hành quyền công tố và kiểm sát giải quyết các loại án hình sự, dân sự đến 4.502 vụ, việc, nhưng chỉ có 24 người, bình quân mỗi người phải đảm nhận 187,5 vụ, việc/năm là quá tải (VKSND Quận Gò Vấp- Thành phố Hồ Chí Minh). Tình trạng trên xảy ra ở nhiều đơn vị VKSND cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố lớn. Nhiều đơn vị cấp phòng thuộc VKSND cấp tỉnh, VKSND tối cao chỉ có 2- 3 người, thiếu rất nhiều so với nhu cầu công tác.

Hiện trạng nói trên đặt ra yêu cầu, trong giai đoạn 2011-2020 cần tăng quy mô nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân tương ứng với yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, nguồn bổ sung nhân lực chủ yếu phải tuyển dụng mới từ nguồn cử nhân luật được đào tạo chính quy do các cơ sở đào tạo đại học luật cung cấp hằng năm vói số lượng hạn chế và nguồn này được phân bổ cho rất nhiều ngành, nghề trong xã hội, trong đó có các cơ quan tư pháp khác và các công ty, văn phòng luật sư với nhu cầu tuyển dụng rất lớn. Việc đào tạo luật nói chung chưa gắn theo vùng miền và ngành, nên những người có bằng cử nhân luật chính quy thường tìm việc ở những nơi có điều kiện kinh tế - xã hội hoặc ngành nghề thuận lợi, có thu nhập cao hơn là các cơ quan tư pháp như ngành Kiểm sát nhân dân. Xu hướng cán bộ, công chức các cơ quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân xin chuyển khỏi cơ quan nhà nước để làm công việc khác đang diễn ra ở một số nơi.

1.2. Về cơ cấu nhân lực

- Cơ cấu theo ngạch công chức

Nghị quyết số 522e/NQ-UBTVQH13 ngày 16/8/2012 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 13 đã xác định tổng số Kiểm sát viên các cấp là 10.424 (chiếm 65,7% tổng biên chế), trong đó:

+ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao: 170 người (chiếm 18,5% biên chế VKSND tối cao)

+ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (nay là Kiểm sát viên trung cấp): 2.540 người (chiếm 58,35% biên chế VKSND cấp tỉnh);

+ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện (nay là Kiểm sát viên sơ cấp): 7.714 người (chiếm 72,9% biên chế VKSND cấp huyện);

- Điều tra viên cao cấp: 35 người (chiếm 3,8% biên chế VKSND tối cao);

- Số còn lại là công chức, viên chức thuộc các ngạch.

Nhìn chung, hiện nay VKSND các cấp còn thiếu hụt số lượng công chức có chức danh tư pháp, nhất là chức danh kiểm sát viên để thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao với 26 đơn vị trực thuộc, trong đó có 14 đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, nhưng chỉ có 170 Kiểm sát viên VKSND tối cao; Pháp lệnh kiểm sát viên (sửa đổi, bổ sung) quy định tại VKSND tối cao có thêm các ngạch kiểm sát viên trung cấp, kiểm sát viên sơ cấp, nhưng hiện nay chưa có cơ chế bổ nhiệm mới tại VKSND tối cao (tại VKSND tối cao chưa có Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên trung cấp, sơ cấp), nên thiếu hụt rất lớn cho nhu cầu công tác; tiếp tục bổ sung chỉ tiêu kiểm sát viên trung cấp cho VKSND các cấp để bổ nhiệm cho những người đủ tiêu chuẩn, nhất là các chức danh lãnh đạo, quản lý của VKSND cấp huyện; thiếu hụt nghiêm trọng nguồn bổ nhiệm kiểm sát viên sơ cấp. Có nhiều đơn vị cấp huyện mới có 30 % cán bộ có chức danh kiểm sát viên nên khó khăn cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo pháp luật về tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính.

- Cơ cấu theo giới tính

Hiện nay, tỷ lệ cán bộ nữ/nam trong ngành Kiểm sát nhân dân bình quân là 38,1 và tỷ lệ này đang tăng lên nhanh chóng, có những tỉnh, thành phố đã đạt trên 50%. Lý do là một thời gian gian khá dài lệ thuộc vào nguồn tuyển dụng từ các cơ sở đạo tạo luật bên ngoài; sinh viên nam không lựa chọn vào ngành Kiểm sát nhân dân, nên không hình thành được cơ cấu phù hợp về giới tính. Vì vậy, ngành Kiểm sát nhân dân cần có những giải pháp về tuyển sinh đào tạo đại học, tuyển dụng cán bộ, để kịp thời điều chỉnh cơ cấu giới tính, bảo đảm tỷ lệ nữ trong ngành Kiểm sát ờ mức phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ.

- Cơ cấu theo vùng miền

Hiện nay, ngành Kiểm sát nhân dân đang phải đối diện với hiện tượng mất cân đối nhân lực theo vùng miền. Tại các thành phố lớn, vùng đô thị, vùng đồng bằng có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển có nguồn tuyển dụng dồi dào, phong phú và chất lượng cao, nhưng khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ lại bị thiếu nguồn tuyển dụng trong một thời gian dài. Lý do là ngành Kiểm sát nhân dân chưa có cơ sở đào tạo bậc đại học nên không thực hiện được chính sách đào tạo cử tuyển; việc thu hút nhân lực gặp nhiều khó khăn do thiếu nguồn lực về tài chính; chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, viên chức chưa đủ hấp dẫn.

Hiện trạng cơ cấu nêu trên đặt ra yêu cầu cần có giải pháp đồng bộ để xây dựng đội ngũ nhân lực đủ về số lượng và cân đối về cơ cấu; công tác đào tạo, bồi dưỡng phải bám sát và đáp ứng được yêu cầu về tiêu chuẩn của các ngạch công chức, nhất là các chức danh kiểm sát viên, điều tra viên.

2. Chất lượng nhân lực và tình hình sử dụng nhân lực

2.1. Theo trình độ học vấn và chuyên môn

- Tiến sỹ: 23 người (0.16%)

- Thạc sỹ: 393 người (2.85%)

- Cử nhân luật: chiếm 96 % công chức nghiệp vụ.

Nhìn chung, về trình độ học vấn và chuyên môn nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân cơ bản đã đạt tương đối cao so với bình quân của các ngành nói chung, nhất là về tỷ lệ đã tốt nghiệp đại học, số cán bộ chưa có trình độ cử nhân chủ yếu là công chức phục vụ như kế toán, văn thư, lưu trữ,., Do có quy định điều kiện bắt buộc phải qua đào tạo mới được bổ nhiệm kiểm sát viên, điều tra viên nên 100% các chức danh này đã được đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, nghiệp vụ điều tra.

Tuy nhiên, so với yêu cầu đặc thù của ngành Kiểm sát nhân dân thì tỷ lệ đào tạo tiến sỹ luật, thạc sỹ luật học còn thấp, nhất là nhu cầu cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, Viện nghiên cứu khoa học và những đơn vị làm công tác tham mưu chiến lược. Hằng năm, toàn ngành Kiểm sát nhân dân có nhu cầu tuyển dụng mới khoảng 1000- 1500 công chức mới theo biên chế được giao và bù đắp số cán bộ nghỉ hưu, theo quy đinh những người này phải được đào tạo nghiệp vụ Kiểm sát. Ngoài ra, hiện nay trong ngành Kiểm sát nhân dân còn có một tỷ lệ nhất định cán bộ có trình độ đại học khác, cần được đào tạo đại học luật văn bằng hai mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

2.2. Trình độ ngoại ngữ, tin học

- Trình độ ngoại ngữ: về cơ bản, những người được tuyển dụng vào Ngành để làm công chức nghiệp vụ kiểm sát từ 40 tuổi trở xuống đều có chứng chỉ ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh) từ trình độ B trở lên, những người có trình độ trung cấp, được tuyển dụng làm công chức phục vụ (như kế toán, văn thư...) đều có chứng chỉ ngoại ngữ trình độ A. Tuy nhiên, do môi trường công tác nên việc học tập, duy trì và nâng cao trình độ ngoại ngữ của cán bộ, công chức ngành Kiểm sát nhân dân còn rất hạn chế, tuyệt đại bộ phận chưa đủ khả năng giao tiếp. Số cán bộ có khả năng trực tiếp tham gia giải quyết các vụ, việc có yếu tố nước ngoài, các hội thảo, hội nghị quốc tế và các hoạt động tương trợ tư pháp khác hầu như không đáng kể, ngay cả ở VKSND tối cao.

- Trình độ tin học: Đa số công chức trong Ngành, nhất là cán bộ dưới 50 tuổi đều có thể sử dụng máy vi tính phục vụ công tác, nhưng chủ yếu cũng mới sử dụng để soạn thảo văn bản, khả năng ứng dụng các tính năng ưu việt của máy vi tính còn hạn chế.

2.3. Những yếu tố, kỹ năng mềm của nhân lực

Tuyệt đại bộ phận cán bộ, công chức ngành Kiểm sát nhân dân đều có tinh thần trách nhiệm cao, thái độ chấp hành pháp luật, kỷ cương, kỷ luật tốt, có tinh thần phối hợp, hợp tác trong cơ quan, đơn vị và phối hợp với các ngành hữu quan, tôn trọng nhân dân và được nhân dân tin tưởng. Bên cạnh đó, cũng có một bộ phận không nhỏ các kỹ năng mềm còn hạn chế như khả năng hùng biện, tranh luận tại các phiên toà...

Đánh giá chung về chất lượng nhân lực trong toàn Ngành cơ bản đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, qua hoạt động thực tiễn chất lượng nhân lực còn bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm như: một bộ phận không nhỏ năng lực thực hiện nhiệm vụ chưa tương xứng với trình độ được đào tạo ở các bậc cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, quađó phản ánh chất lượng đào tạo nhân lực của các cơ sở đào tạo luật chưa cao và nhất là chưa phù hợp với đặc thù ngành Kiểm sát nhân dân; trình độ ngoại ngữ, tin học còn thấp nên hạn chế khả năng hội nhập quốc tế; thiếu đội ngũ chuyên gia giỏi ở VKSND các cấp, nhất là đội ngũ tham mưu chiến lược ở VKSND tối cao, một bộ phận chưa thực sự tâm huyết với Ngành; tư duy, phương pháp làm việc của nhiều người còn theo lối mòn, chậm đổi mới để theo kịp thời đại.

II. HIỆN TRẠNG ĐÀO TẠO NHÂN LỰC

1. Hệ thống đào tạo nhân lực

Hiện nay, ngành Kiểm sát nhân dân có Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Hà Nội và Phân hiệu tại thành phố Hổ Chí Minh với chức năng, nhiệm vụ đào tạo nghiệp vụ kiểm sát cho công chức ngành Kiểm sát nhân dân đã tốt nghiệp đại học luật và bồi dưỡng công chức theo quy định của pháp luật; có tổng diện tích khuôn viên gần 50.000 m2, với hệ thống giảng đường, phòng học và trang thiết bị đáp ứng một phần nhu cầu cơ bản về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; có 128 biên chế, trong đó có 78 giảng viên cơ hữu (8 Tiến sĩ, 25 Thạc sĩ và 21 người đang làm nghiên cứu sinh và cao học luật) và hơn 100 giảng viên kiêm nhiệm, giảng viên thỉnh giảng trong và ngoài ngành. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật, kỹ nãng nghiệp vụ, ngoại ngữ và hội nhập quốc tế; phương pháp giảng dạy gắn lý thuyết vcd thực hành; chất lượng đào tạo, bổi dưỡng cơ bản đáp ứng yêu cầu hiện nay. So với nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, thì hệ thống đào tạo hiện nay còn có những hạn chế sau đây:

- Viện kiểm sát nhân dân là một cơ quan hiến định, có chức năng, nhiệm vụ đặc thù, với hộ thống tổ chức 3 cấp trên phạm vi cả nước, nhu cầu về nhân lực rất lớn, nhưng chưa có cơ sở đào tạo bậc đại học nên không chủ động được đầu vào về nguồn nhân lực như nhiều ngành, nghề khác;

- Hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện làm việc chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của Ngành; chưa có các sơ sở bồi dưỡng cán bộ, công chức theo vùng, miền; một số giảng viên năng lực chuyên môn, kiến thức thực tiễn, khả năng truyền đạt kiến thức chưa đáp ứng yêu cầu; điều kiện nghiên cứu học tập để tiếp thu kinh nghiệm, công nghệ đào tạo kiểm sát viên, công tố viên của các nước có nền tư pháp tiên tiến còn hạn chế.

Để khắc phục những hạn chế nêu trên, tại phiên họp ngày 21/12/2012, Bộ Chính trị đã đồng ý chủ trương cho phép ngành Kiểm sát nhân dân được đào tạo bậc đại học chuyên ngành để có thêm nguồn tuyển dụng cán bộ phù hợp với chuyên môn. Đây được coi là giải pháp căn bản, lâu dài để phát triển nhân lực của Ngành đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

2. Tổ chức đào tạo nhân lực

Việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát và quản lý nhà nước chuyên ngành cho cán bộ lãnh đạo, quản lý được tổ chức tại Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Hà Nội và Phân hiệu tại thành phố Hồ Chí Minh; các loại hình đào tạo khác như đào tạo đại học (chuẩn hoá kiến thức hoặc văn bằng hai đại học luật...), sau đại học, lý luận chính trị và quản lý nhà nước theo các ngạch chuyên viên, ngành Kiểm sát nhân dân phải cử cán bộ đến học tại các cơ sở đào tạo khác hoặc liên kết giữa cơ sở đào tạo của Ngành với cơ sở đào tạo khác.

Ngoài ra, hằng năm ngành Kiểm sát nhân dân có cử cán bộ học sau đại học, bồi dưỡng ngắn hạn về kiến thức pháp luật, học tập kinh nghiệm, học ngoại ngữ ở nước ngoài theo các Đề án của Ban Tổ chức Trung ương, Chính phủ; các dự án, quỹ học bổng của một số nước và tổ chức quốc tế.. .Tuy nhiên, số lượng cán bộ, công chức được đào tạo ở nước ngoài rất ít, chưa đáp ứng nhu cầu.

Hiện nay, thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị về công tác đào tạo của ngành Kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đang tập trung nguồn lực và tích cực phối hợp với các bộ, ngành liên quan để hoàn tất việc thẩm định hồ sơ dự án, trình Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, để sớm thực hiện việc tuyển sinh và đào tạo đại học.

3. Hiện trạng quản lý nhà nước và cơ chế, chính sách phát triển nhân lực của Ngành.

- Hệ thống quản lý nhà nước về đào tạo nhân lực ở cấp trung ương chủ yếu do Vụ Tổ chức cán bộ VKSND tối cao, ở địa phương do Phòng Tổ chức cán bộ đảm nhận. Trong Vụ Tổ chức cán bộ VKSND tối cao có Phòng Đào tạo chuyên trách tham mưu quản lý nhà nước về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ với biên chế lâu nay duy trì 2- 3 người, chưa đủ để thực hiện đầy đủ công tác tham mưu quản lý nhà nước về công tác đào tạo, bồi dưỡng trên phạm vi toàn quốc. Ớ các VKSND địa phương chưa có cán bộ chuyên trách tham mưu về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức mà chỉ kiêm nhiệm, và chủ yếu mới thực hiện các thủ tục cử cán bộ, công chức đi học theo kế hoạch của Ngành.

- Vốn đầu tư cho phát triển nhân lực của Ngành do ngân sách nhà nước cấp hằng năm, trong 2- 3 năm gần đây bình quân trên dưới 20 tỷ đồng/năm cho toàn bộ công tác đào tạo, bồi dưỡng của Ngành (trừ chi lương, phụ cấp cho giảng viên và hoạt động thường xuyên của 2 cơ sở đào tạo, bồi dưỡng). Ngoài ra, còn có một số ít chỉ tiêu đào tạo sau đại học, đào tạo ngoại ngữ ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước theo các đề án của Ban Tổ chức Trung ương và Chính phủ, tranh thủ học bổng của chính phủ một số nước. Trên thực tế những người đi học và các đơn vị cử người đi học phải tự bù đắp một phần kinh phí (ngoài kinh phí đào tạo, bồi dưỡng được phân bổ hàng năm) từ nguồn kinh phí khác vì kinh phí đào tạo, bồi dưỡng được cấp không đáp ứng nhu cầu chi. Việc huy động các nguồn lực cho sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng của ngành Kiểm sát nhân dân ngoài các nguồn trên, hiện còn gặp nhiều khó khăn.

- Về cơ chế khuyến khích người học (ngoài chế độ chung như hỗ trợ tiền mua tài liệu, hỗ trợ một phần tiền ăn), ngành có chế độ hỗ trợ bù đắp một phần chi phí học tập cho những người học thạc sĩ, tiến sĩ, mức hỗ trợ không vượt quá 15 triệu đồng đối với người có bằng thạc sĩ và không vượt quá 20 triệu đồng đối với người có bằng tiến sĩ.

- Cơ chế, chính sách quản lý và nâng cao chất lượng đào tạo, bổi dưỡng như quản lý kiểm định chất lượng, đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, yêu cầu đối vối giảng viên... đã được quy định trong Quy chế đào tạo, bồi dưỡng của ngành, tuy nhiên việc tổ chức trong thực tiễn còn hạn chế. Trong những năm gần đây đã có sự cải tiến nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cấp trang thiết bị giảng dạy, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu.

III. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN NHỮNG MẶT MẠNH, HẠN CHẾ, THÁCH THỨC VÀ THỜI CƠ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1. Những điểm mạnh

- Về quy mô nhân lực: Được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quan tâm tăng biên chế, so với những năm trước đây, quy mô nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân hiện nay đã được tăng khá lớn để từng bước đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp.

- Về chất lượng nhân lực và việc sử dụng nhân lực: Cơ bản ngành Kiểm sát nhân dân đã hoàn thành việc chuẩn hoá trình độ cử nhân luật cho cán bộ, công chức trong Ngành, việc tuyển dụng nhân lực đảm bảo tiêu chuẩn nên tỷ lệ nhân lực có trình độ đại học trở lên đạt cao. Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, giáo dục phẩm chất đạo đức, ý thức chấp hành pháp luật, kỷ cương, kỷ luật, văn hoá giao tiếp... được quan tâm nên chất lượng nhân lực cơ bản đáp ứng yêu cầu công tác hiện nay.

- Hệ thống đào tạo đã có lịch sử gần 50 năm, có nhiều kinh nghiệm trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực của Ngành.

- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng; công tác quản lý nhà nước và cơ chế chính sách phát triển nhân lực bước đầu đã có những đổi mới nhất định, hiện nay đang được toàn Ngành quan tâm; đã quan tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao trong nước và nước ngoài, đào tạo qua thực tiễn.

2. Những điểm hạn chế

- So với chức năng, nhiệm vụ ngày càng được tăng cường, yêu cầu chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp ngày càng cao và với cơ cấu tổ chức có 695 đơn vị cấp huyện, 63 đơn vị cấp tỉnh, 26 đơn vị trực thuộc VKSND tối cao thì quy mô nhân lực hiện nay của ngành Kiểm sát nhân dân vẫn còn khiêm tốn, thiếu nhân lực khá nghiêm trọng trong lúc nguồn bổ sung gặp nhiều khó khăn;

- Yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ có tính đặc thù là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đối tượng kiểm sát không chỉ là các loại tội phạm, mà còn là vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong điều kiện hội nhập quốc tế, nên đòi hỏi chất lượng nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân nói chung phải có trình độ cao, chuyên sâu, thông thạo nhiều lĩnh vực pháp luật, giỏi kỹ năng chuyên ngành và có kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực chuyên môn khác; có trình độ ngoại ngữ và tin học đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ. Tuy nhiên, số lượng nhân lực đạt những yêu cầu toàn diện nêu trên còn chiếm tỷ lệ thấp;

- Hệ thống đào tạo hiện có chưa phù hợp cả về quy mô, mô hình tổ chức và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng so với yêu cầu phát triển nhân lực của Ngành, nhất là chưa có cơ sở đào tạo tạo đầu vào cho nguồn nhân lực ở trình độ đại học, sau đại học để chủ động phát triển nhân lực cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu (giới tính, vùng miền, dân tộc); tổ chức đào tạo còn giới hạn trong Ngành, mức độ hội nhập trong nước và quốc tế còn hạn chế;

- Hệ thống quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức còn đơn giản về mô hình tổ chức, thiếu nhân lực, làm theo kinh nghiệm, chưa được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng; cơ chế chính sách khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng còn bất cập.

3. Thách thức và thời cơ

- Thách thức: Phát triển nguồn nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân để thực hiện mục tiêu được đề ra trong Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là nhằm xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là một yêu cầu rất cao của Đảng và Nhà nước, nhưng việc phát triển nhân lực của Ngành hiện gặp nhiều khó khăn về cơ chế thu hút nhân lực; chưa có cơ sở đào tạo chuyên ngành ở trình độ đại học, sau đại học; nguồn lực cho công tác đào tạo, bồi dưỡng còn nhỏ bé. Hội nhập quốc tế đòi hỏi các ngành tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân phải vươn lên ngang tầm quốc tế để góp phần thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Thời cơ: Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đặt ra yêu cầu cao nhưng đồng thời các cơ quan tư pháp, trong đó có ngành Kiểm sát nhân dân cũng nhận được sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước và nhân dân về mọi mặt. Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để ngành Kiểm sát nhân dân dễ dàng hơn trong việc tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm cũng như tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế nhằm phát triển nhân lực Ngành trong thòi đại mới.

Phần thứ hai

PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN GIAI ĐOẠN 2011-2020

I. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC GIAI ĐOẠN 2011-2020

1. Những nhân tố bên ngoài

- Đất nước ta đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực. Trong quá trình hội nhập đã và đang phát sinh nhiều loại vụ, việc mới, phức tạp như: Các tranh chấp dân sự, thương mại quốc tế, các loại tội phạm có yếu tố nước ngoài; các yêu cầu tương trợ tư pháp quốc tế; yêu cầu thực hiện các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc công nhận. Để kiểm sát giải quyết tốt các loại vụ, việc nêu trên đòi hỏi ngành Kiểm sát nhân dân phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ số lượng, tinh thông nghiệp vụ, kiến thức pháp luật quốc tế và khả năng sử dụng ngoại ngữ.

- Xu hướng gần nhau hơn, học hỏi kinh nghiệm xây dựng pháp luật và hệ thống tư pháp giữa các quốc gia đang diễn ra mạnh mẽ, đòi hỏi công tác phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân cũng phải cập nhật và phù hợp vói xu hướng phát triển của thời đại.

2. Những nhân tố trong nước

2.1. Đổi mới tổ chức, hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

Thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005; Kết luận số 79-KL/TW,ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị và Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Viện kiểm sát nhân dân tối cao xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt các Đề án về đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân với những nội dung chủ yếu sau:

a. Kiện toàn tổ chức, bộ máy các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao (quý II/2013)

- Để khắc phục những nhược điểm về mô hình tổ chức, đề nghị đổi tên gọi từ "Vụ” thành "Viện” và tăng cường nhân lực cho các đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; kiến nghị sửa đổi các quy định của pháp luật tố tụng nhằm thực hiện chủ trương tăng nhiệm vụ, quyền hạn cho các chức danh tư pháp;

- Đề nghị thành lập Vụ Thi đua - Khen thưởng trên cơ sở Phòng thi đua thuộc Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thành lập Vụ pháp chế hoặc Vụ nghiên cứu pháp luật và Quản lý khoa học trên cơ sở đổi tên Viện Khoa học Kiểm sát; thành lập Viện nghiên cứu tội phạm họcquốc gia có nhiệm vụ thống kê, phân tích tội phạm và đề xuất các biện pháp phòng ngừa tội phạm theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội; thành lập Trường Đại học Kiểm sát, có chức năng đào tạo cử nhân và đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát; nâng cấp Phân hiệu Trường Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh thành Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát; đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

b. Thành lập Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (dự kiến sau năm 2015)

Thành lập Viện kiểm sát nhân dân cấp cao trên cơ sở ba Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm hiện nay, với tổ chức bộ máy gồm các phòng nghiệp vụ chuyên môn được phân công theo loại việc; cơ cấu cán bộ gồm Viện trưởng, các Phó viện trưởng, Kiểm sát viên các ngạch, cán bộ nghiệp vụ và nhân viên hành chính, phục vụ;

c. Thành lập Viện kiểm sát nhân dân khu vưc (dư kiến sau năm 2015 sau khi được cấp có thẩm quyền quyết định)

Việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân khu vực được thực hiện trên cơ sở sáp nhập một số Viện kiểm sát cấp huyện, với tổ chức bộ máy gồm một số phòng nghiệp vụ đối với các đơn vị có số lượng công việc lớn; cơ cấu cán bộ gồm Viện trưởng, các Phó viện trưởng, Kiểm sát viên trung cấp và sơ cấp, Kiểm tra viên, chuyên viên và nhân viên hành chính, phục vụ;

2.2. Việc tăng cường nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của nhiều văn bản pháp luật mới

- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự đã mở rộng phạm vi tham gia phiên toà, phiên họp của Viện kiểm sát nhân dân nên trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự thời gian tới sẽ rất nặng nề. Ước tính số vụ, việc Viện kiểm sát nhân dân phải tham gia phiên toà, phiên họp ở cấp sơ thẩm khoảng 80 % số vụ án Toà án giải quyết hằng năm, tăng khoảng 80 lần so với hiện nay và ở cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm là 100 %.

- Luật Tố tụng hành chính quy định mở rộng phạm vi thẩm quyền của Toà án, theo đó, Toà án có thẩm quyền giải quyết hầu hết các khiếu kiện đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính; nới lỏng điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện ra Toà án (không bắt buộc phải khiếu nại đến cơ quan hành chính có thẩm quyền giải quyết trước). Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ từ năm 2005 đến 30/6/2009, các cơ quan hành chính nhà nước tiếp nhận 628.305 đơn khiêu nại với tổng sô 442.433 vụ việc. Báo cáo giải quyêt khiêu nại của Chính phủ trình Quốc hội Khoá XII cho thấy trong năm 2010 cả nước phát sinh 134.782 lượt khiếu nại, tố cáo đối với 98.911 vụ việc, trong đó 69,9 % là khiếu nại trong lĩnh vực quản lý đất đai. Như vậy, trung bình mỗi năm các cơ quan hành chính phải giải quyết gần 100.000 vụ việc khiếu kiện hành chính. Theo qui định mới của Luật Tố tụng hành chính, số vụ việc này có thể được giải quyết bởi Toà án các cấp và Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm tham gia 100% các phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hành chính. Vì thế khối lượng công việc của Viện kiểm sát nhân dân sẽ gia tăng đột biến.

- Luật Thi hành án hình sự qui định từ 01/7/2011, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong thi hành án phạt tù đối với trại giam đóng tại địa phương, đã làm tăng trách nhiệm của Viện kiêm sát các địa phương trong kiểm sát thi hành án hình sự.

- Luật Thi hành án dân sự cũng giao thêm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thi hành án dân sự, đồng thời bộ máy cơ quan thi hành án được tăng cường mạnh mẽ, nên cũng đặt ra yêu cầu tăng cường tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp để kiểm sát hoạt động thi hành án.

2.3. Sự gia tăng số lượng các vụ việc phải giải quyết hằng năm

Thống kê gần đây cho thấy, số lượng các vụ việc phải giải quyết tăng trung bình hàng năm khoảng 15%/năm. Điều này đặt ra nhu cầu gia tăng về số lượng nhân lực hàng năm cho ngành Kiểm sát nhân dân.

Như vậy, để đáp ứng tốt các yêu cầu nói trên, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức của ngành Kiểm sát nhân dân phải được phát triển cả về số lượng, chất lượng và cân đối về cơ cấu (Viện kiểm sát các cấp; chức vụ lãnh đạo, quản lý; chức danh pháp lý; ngạch công chức; độ tuổi; trình độ; vùng miền và giới tính).

II. QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN GIAI ĐOẠN 2011-2020

1. Quan điểm phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân

- Nhằm góp phần thực hiện thành công Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005; Kết luận số 79- KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị và Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI;

- Phải có tầm nhìn dài hạn, đáp ứng được yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài;

- Phải phù hợp với Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ; gắn với lộ trình cải cách tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân; đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế;

- Phải cân đối về cơ cấu nhân lực giữa Viện kiểm sát nhân dân các cấp, các chức vụ lãnh đạo, quản lý; các chức danh pháp lý, các ngạch công chức; cơ cấu về trình độ, độ tuổi, giới tính...

2. Mục tiêu

a) Mục tiêu tổng quát: Xác định được nhu cầu về số lượng; chất lượng và cơ cấu hợp lý nhân lực của Ngành, đồng thời chỉ ra được các giải pháp phát triển nhân lực nhằm xây dựng đội ngũ nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

b) Mục tiêu cụ thể:

- Dự báo sát nhu cầu nhân lực và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nhân lực;

- Đảm bảo chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành Kiểm sát nhân dân về chuyên môn nghiệp vụ, chính trị, khả năng sử dụng ngoại ngữ và tin học;

- Phát triển đổng bộ đội ngũ nhân lực ở Viện kiểm sát các cấp, các lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ, các vùng miền;

- Xác định tiêu chuẩn đối với từng chức danh Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; chức vụ lãnh đạo quản lý thuộc Viện kiểm sát các cấp và các ngạch công chức khác về mọi mặt và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn quy định.

3. Dự báo nhu cầu nhân lực của ngành

3.1. Về quy mô nhân lực

- Giai đoạn 2011- 2015 (theo mô hình hiện nay)

Từ năm 2013 đến năm 2015, ngành Kiểm sát nhân dân cần được tăng trung bình khoảng 1.500 biên chê/năm; số biên chế cần tăng thêm trong 3 năm là 4.500. Tính đến năm 2015, tổng biên chế toàn ngành là 20.360 người, trong đó:

+ Viện kiểm sát nhân dân tối cao: 1.751 người (8.6%);

+ Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh: 5.908 người (29.02%);

+ Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện: 12.701 người (62.38%).

(Tỷ lệ biên chế của Viện kiểm sát nhân dân tối cao dự báo tăng khoảng 2,79% do việc thành lập mới một số đơn vị trực thuộc và tăng cường nhân lực cho các đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp).

- Giai đoạn 2016-2020 (theo mô hình 4 cấp)

Giai đoạn 2016-2020 ngành Kiểm sát nhân dân cần được tăng trung bình khoảng 1.050 biên chế/năm; số biên chế cần tăng thêm trong 5 năm là 5250. Tính đến năm 2020, tổng biên chế toàn ngành là 25.610 người, trong đó:

+ Viện kiểm sát nhân dân tối cao: 2.202 người (8.6%);

+ Các Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (dự kiến có 3 Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh): 615 người (2.4 %)

+ Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh: 7.097 người (27.71%);

+ Viện kiểm sát nhân dân cấp khu vực: 15.696 người (61.29%).

Trong cơ cấu nói trên đã giảm tỷ lệ nhân lực ở Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh để tăng cường cho các Viện kiểm sát cấp cao, theo đó khi thực hiện mô hình VKSND 4 cấp được nêu tại Kết luận số 79- KL/TW của Bộ Chính trị, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh không thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án giám đốc thẩm, tái thẩm nữa mà nhiệm vụ này được chuyển giao cho các Viện kiểm sát cấp cao.

3.2. Về cơ cấu nhân lực

Nghị quyết số 522e/NQ- UBTVQH13 ngày 16/8/2012 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 13 qui định tỷ lệ nói chung Kiểm sát viên các ngạch của Viện kiểm sát nhân dân các cấp trên tổng biên chế là 65,7% (10.424/15.860). Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 (được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 19/02/2011) đã chuyển đổi ngạch Kiểm sát viên cấp tỉnh, cấp huyện thành Kiểm sát viên trung cấp, sơ cấp (không theo cấp hành chính); đồng thời quv định mỗi cấp Viện kiểm sát được bố trí các ngạch Kiểm sát viên khác nhau. Do vậy, cơ cấu Kiểm sát viên cần được thay đổi theo đúng quy định của Pháp lệnh, đồng thời dự kiến khi thực hiện mô hình tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 4 cấp thì chức danh Kiểm sát viên sẽ được cơ cấu thành 4 ngạch là Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Theo đó, dự báo về cơ cấu nhân lực theo ngạch công chức như sau:

a. Tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao

- Giai đoạn 2011- 2015

Bổ sung chỉ tiêu Kiểm sát viên các cấp cho các đơn vị nghiệp vụ thuộc VKSND tối cao để thực hiện nhiệm vụ mới theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hành chính và phù hợp với qui định của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh kiểm sát viên; cần tăng số lượng Kiểm sát viên các ngạch, bổ sung Điều tra viên và giảm dần tỷ lệ Kiểm tra viên. Nghị quyết số 522e/NQ- UBTVQH13) xác định tổng số Kiểm sát viên, Điều tra viên các ngạch là 65.7% biên chế, tương ứng là 1.150 người, trong đó:

+ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Điều tra viên cao cấp: 205 người (11.7% biên chế), trong đó Kiểm sát viên VKSND tối cao là 170 người, Điều tra viên cao cấp là 35 người.

+ Kiểm sát viên trung cấp và Điều tra viên trung cấp: 683 người (39%)

+ Kiểm sát viên sơ cấp và Điều tra viên sơ cấp: 262 người (15%)

+ Công chức các ngạch khác: 601 người (34,3%)

- Giai đoạn 2016-2020

Giữ nguyên tỷ lệ Kiểm sát viên các ngạch, nhưng cơ cấu theo hướng giảm mạnh số lượng Kiểm sát viên VKSND tối cao; bổ sung ngạch Kiểm sát viên cao cấp, bố trí chủ yếu tại các đơn vị nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đồng thời duy trì một tỷ lệ thích hợp kiểm sát viên trung câp và Kiểm sát viên sơ cấp ở VKSND tối cao theo qui định. Theo đó, số lượng Kiểm sát viên các ngạch tại VKSND tối cao dự kiến là 1.447/2.202 (65.7% biên chế), cụ thể như sau:

+ Kiểm sát viên VKSND tối cao: 30 người (1.36% biên chế), được bố trí cho Lãnh đạo VKSND tối cao, Uỷ viên Uỷ ban Kiểm sát và một số Thủ trưởng đơn vị trực thuộc.

+ Kiểm sát viên cao cấp và Điều tra viên cao cấp: 279 người (12.64%)

+ Kiểm sát viên trung cấp và Điều tra viên trung cấp: 808 người (36.7%)

+ Kiểm sát viên sơ cấp và Điều tra viên sơ cấp: 330 người (15%)

+ Công chức khác: 755 người (34.3%), bao gồm kiểm tra viên, chuyên viên và cán sự.

b. Tại Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (áp dụng cho giai đoạn 2016-2020)

Khi hình thành Viện kiểm sát cấp cao, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát cấp cao là thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp tỉnh có kháng cáo, kháng nghị và theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án của Toà án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật nhưng lại kháng nghị. Như vậy, so với chức năng, nhiệm vụ của các Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm hiện nay, khối lượng công việc của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao sẽ tăng thêm nhiều. Cơ cấu Kiểm sát viên của các Viện kiểm sát nhân dân cấp cao chủ yếu cần Kiểm sát viên cao cấp để tham gia phiên toà, phiên họp của Toà án nhân dân cấp cao và một tỷ lệ hợp lý Kiểm sát viên trung cấp, sơ cấp và chuyên viên giúp việc.

Tính chung trong cả 3 Viện kiểm sát cấp cao dự kiến tỷ lệ Kiểm sát viên các ngạch như sau:

- Kiểm sát viên cao cấp: 369 người (60%)

- Kiểm sát viên trung cấp: 122 người (20%)

- Kiểm sát viên sơ cấp: 62 người (10%)

- Công chức khác: 62 người (10%), bao gồm kiểm tra viên, chuyên viên và cán sự.

c. Tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh

- Giai đoạn 2011- 2015

Bổ sung chỉ tiêu Kiểm sát viên sơ cấp cho các đơn vị nghiệp vụ thuộc VKSND cấp tỉnh để đáp ứng yêu cầu mới do Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính, tăng cường công tố trong hoạt động điều tra và phù hợp với qui định của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh kiểm sát viên.

+ Kiểm sát viên trung cấp: 3.447 người (tỷ lệ 58.35 % biên chế)

+ Kiểm sát viên sơ cấp 886 người (15%)

+ Công chức các ngạch khác: 1.575 người (26.65 %)

- Giai đoạn 2016-2020 (khi thực hiện mô hình 4 cấp)

Bổ sung ngạch Kiểm sát viên cao cấp cho Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, chủ yếu để bố trí cho lãnh đạo VKSND cấp tỉnh (khoảng 4%). Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh- chủ yếu vẫn là Kiểm sát viên trung cấp (tỷ lệ hiện nay trừ đi 4 % đã chuyển sang ngạch Kiểm sát viên cao cấp, còn khoảng 54,35%), đồng thời vẫn cần duy trì một tỷ lệ thích hợp kiểm sát viên sơ cấp theo qui định để tạo nguồn bổ nhiệm Kiểm sát viên trung cấp và giảm tỷ lệ Kiểm tra viên tại VKSND cấp tỉnh. Theo đó, cơ cấu Kiểm sát viên các ngạch tại VKSND cấp tỉnh giai đoạn này dự kiến như sau:

+ Kiểm sát viên cao cấp: 284 người (7.097 x 4%);

+ Kiểm sát viên trung cấp: 3.857 người (54.35%),

+ Kiểm sát viên sơ cấp: 1.419 người (20%);

+ Công chức khác: 1.537 người (21.65%), bao gồm kiểm tra viên, chuyên viên và cán sự.

d.Tại Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện/Viện kiểm sát khu vực

- Giai đoạn 2011- 2015

Bổ sung chỉ tiêu Kiểm sát viên trung cấp cho các bộ phận nghiệp vụ thuộc VKSND cấp huyện để đáp ứng yêu cầu mới do Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính, tăng cường công tố trong hoạt động điều tra (như đã nêu ở phần trên) và phù hợp với quy định của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát viên. Áp dụng tỷ lệ Kiểm sát viên/tổng biên chế được giao theo quy định hiện hành tại Nghị quyết 522e/NQ- UBTVQH13 ngày 16/8/2012 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì cơ cấu các ngạch Kiểm sát viên tại Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện được xác đinh trên nguyên tắc tỷ lệ Kiểm sát viên các ngạch tại VKSND cấp huyện không thay đổi (72,9%), nhưng bổ sung một tỷ lệ hợp lý Kiểm sát viên trung cấp để bố trí cho lãnh đạo của VKSND cấp huyện (có 696 đơn vị, nếu trung bình mỗi đơn vị có 3 chỉ tiêu thì tỷ lệ Kiểm sát viên trung cấp chiếm 17%), theo đó sẽ giảm tương ứng tỷ lệ Kiểm sát viên sơ cấp (còn 55,9%). Theo nguyên tắc nói trên, dự kiến như sau:

Tổng số Kiểm sát viên/biên chế VKSND cấp huyện là 72.9%, tương ứng: 9.259 người, trong đó:

+ Kiểm sát viên trung cấp: 2.159 người (12.701 x 17%)

+ Kiểm sát viên sơ cấp: 7.100 người (55.9%)

+ Công chức các ngạch khác: 3.442 người (27.1%)

- Giai đoạn 2016-2020 (thực hiện mô hình Viện kiểm sát nhân dân khu vực)

Bổ sung ngạch Kiểm sát viên cao cấp cho Viện kiểm sát nhân dân khu vực, chủ yếu để bố trí cho Viện trưởng các VKSND khu vực trọng điểm (khoảng 1%), giữ nguyên tỷ lệ Kiểm sát viên trung cấp như VKSND cấp huyện để bố trí cho cấp trưởng và một số phó phòng của các VKSND khu vực quy mô số lượng công việc lớn (dự kiến VKSND khu vực có cơ cấu cấp phòng). Viện kiểm sát nhân dân cấp khu vực chủ yếu vẫn là Kiểm sát viên sơ cấp (tỷ lệ Kiểm sát viên của VKSND cấp huyện hiện nay trừ đi tỷ lệ Kiểm sát viên cao cấp và trung cấp), còn khoảng 54,9%), giảm dần tỷ lệ Kiểm tra viên. Theo đó, cơ cấu Kiểm sát viên các ngạch tại VKSND khu vực giai đoạn này dự kiến như sau:

Tổng số Kiểm sát viên/biên chế VKSND cấp khu vực là 72.9%, tương ứng:11.442 người (15.696 X 72.9%), trong đó:

+ Kiểm sát viên cao cấp: 157 người (15.696 x 1%)

+ Kiểm sát viên trung cấp: 2.668 người (17%)

+ Kiểm sát viên sơ cấp: 8.617 người (54.9%)

+ Công chức khác: 4.254 người (27.1%).

Nhu cầu cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện giai đoạn trước 2015 cơ bản về số lượng là như hiện nay, nhưng khi chuyển sang mô hình mới, tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 4 cấp sẽ đặt ra yêu cầu tăng cán bộ lãnh đạo cấp phòng cho các Viện kiểm sát cấp cao và một số Viện kiểm sát nhân dân khu vực.

3.3. Nhu cầu về trình độ đào tạo (quy hoạch chung đến năm 2020):

- Tiến sỹ: 0,5% (tương ứng 125 người)

- Thạc sỹ: 5% (tương ứng 1.250 người)

- Cử nhân: 98% (bao gồm cả số lượng đã học sau đại học)

- Đã qua đào tạo nghiệp vụ kiểm sát: 96%/tổng công chức nghiệp vụ kiểm sát (thông thường số công chức mới tuyển dụng hàng năm phải có thời gian đào tạo)

- Chế độ bồi dưỡng cán bộ công chức, đảm bảo thực hiện theo quy định của Chính phủ và Quy chế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của ngành Kiểm sát nhân dân.

- Trình độ chính trị: Thực hiện theo tiêu chuẩn quy định chung cho các ngạch công chức và chức vụ lãnh đạo quản lý của cơ quan có thẩm quyền.

- Trình độ ngoại ngữ (tiếng Anh): Đến năm 2020, cơ bản 100% cán bộ, công chức có trình độ về tiếng Anh ở mức độ giao tiếp thông thường, trong đó có 10% có thể sử dụng thành thạo để trực tiếp tham gia giải quyết công việc khi có nhu cầu. Ở những nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống cơ bản 100% cán bộ, công chức có thể nói tiếng dân tộc phổ biến ở địa phương đó ở mức độ giao tiếp thông thường, trong đó có 20% có thể sử dụng thành thạo để trực tiếp tham gia giải quyết công việc khi có nhu cầu; ngoài ra cần một tỷ lệ nhất định cán bộ, công chức sử dụng được tiếng Nga, Trung Quốc, Lào, Cămpuchia để phục vụ công tác.

- Sử dụng thành thạo máy vi tính: 100 % cán bộ, công chức sử dụng thành thạo máy vi tính để phục vụ công tác.

Phần thứ ba

NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC

I. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUY MÔ NHÂN LỰC VÀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG NHÂN LỰC

1. Nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý về phát triển nhân lực

Trong thời gian qua, tình trạng hẫng hụt nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng đối với ngành Kiểm sát nhân dân có một nguyên nhân quan trọng đó là nhận thức và trách nhiệm của các cấp, nhất là của cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa cao, mới quan tâm đến nhu cầu trước mắt mà chưa tính chiến lược lâu dài. Vì vậy, để thực hiện được quy hoạch phát triển nhân lực của Ngành đến năm 2020, đòi hỏi Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải nhận thức đầy đủ về vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực đối với công tác xây dựng Ngành, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trên cơ sở đó, đề ra các giải pháp cụ thể phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương, đơn vị.

2. Nghiên cứu, đề xuất cơ quan có thẩm quyền tăng biên chế, số lượng các ngạch Kiểm sát viên theo lộ trình phù hợp

Nghiên cứu, xây dựng Đề án xác định vị trí việc làm của ngành Kiểm sát nhân dân, trong đó tiến hành khảo sát, nghiên cứu, đánh giá một cách khoa học về khối lượng công việc các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân các cấp; xây dựng bảng mô tả về vị trí việc làm cần có cho từng đơn vị cụ thể, từ đó xác định đúng, đủ và hợp lý số lượng biên chế cho từng đơn vị, từng cấp và toàn ngành, trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cho từng giai đoạn.

3. Công tác tuyển dụng nhân lực

Thực tế những năm qua cho thấy, mặc dù được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quan tâm tăng biên chế để đáp ứng yêu cầu công việc, nhưng nhiều Viện kiểm sát địa phương vẫn không thể tuyển dụng đủ biên chế được giao, nhất là Viện kiểm sát các tỉnh vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ. Để tuyển dụng đủ biên chế theo nhu cầu, cần kết hợp nhiều giải pháp như sau:

a) Đổi mới việc phân bổ biên chế sát với nhu cầu nhân lực của Viện kiểm sát các cấp và các địa phương, vùng miền;

b) Tăng cường công tác tuyên truyền về ngành Kiểm sát nhân dân, về nhu cầu tuyển dụng của Ngành để thu hút sự quan tâm của những người có nguyện vọng, nhất là sinh viên tại các cơ sở đào tạo luật;

c) Đổi mới công tác tuyển dụng theo hướng sửa đổi quy đinh về hình thức tuyển dụng, cách thức tổ chức thi tuyển, nhằm rút ngắn thời gian chờ đợi và giảm thiểu khó khăn, phiền hà cho các ứng viên.

d) Khẩn trương hoàn tất thủ tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thành lập Đại học Kiểm sát để sớm tổ chức việc tuyển sinh đào tao cử nhân luật chuyên ngành Kiểm sát phù hợp với nhu cầu tại chỗ; đồng thời có cơ chế ưu tiên tuyển sinh cho các vùng có khó khăn về tuyển dụng công chức. Đây là giải pháp căn bản, lâu dài cho công tác tuyển dụng công chức của ngành Kiểm sát nhân dân;

đ) Đề xuất với cấp có thẩm quyền cải cách chế độ lương, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức ngành Kiểm sát nhân dân để thu hút mạnh mẽ nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao.

4. Hoàn thiện cơ chế quản lý, thực hiện tốt công tác quy hoạch, quản lý, đánh giá, sử dụng nhân lực.

- Xây dựng cơ chế, chính sách để giữ và thu hút những chuyên gia có trình độ cao, những người có khả năng đóng góp nhiều cho Ngành; ghi nhận, tôn vinh và khen thưởng xứng đáng những cán bộ, kiểm sát viên có thái độ làm việc tận tâm, đưa ra nhiều giải pháp chiến lược, đột phá về xây dựng ngành hoặc tham mưu, đề xuất giải quyết tốt về chuyên môn, nghiệp vụ, góp phần tạo dựng uy tín và sức mạnh ngày càng lớn cho Ngành; phát hiện và giao cơ hội thử thách, đào tạo cho những cán bộ, công chức có khả năng công tác thực sự ; tạo dựng môi trường làm việc minh bạch, công bằng và lành mạnh để mọi cán bộ, kiểm sát viên đều có cơ hội thể hiện khả năng làm việc, cống hiến cho Ngành và phát triển bản thân.

- Thực hiện tốt công tác quy hoạch nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc Viện kiểm sát các cấp; công tác quy hoạch phải đi trước một bước để làm cơ sở cho công tác đào tạo nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn đối với từng ngạch công chức, từng loại chức vụ lãnh đạo, quản lý; chú trọng công tác đánh giá cán bộ, gắn liền vói việc bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức phù hợp với năng lực, sở trường, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

- Tiếp tục thực hiện thí điểm và tiến tới hoàn thiện các quy định về tuyển chọn nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ để áp dụng chính thức trong toàn ngành, góp phần khắc phục tình trạng hẫng hụt về thế hệ đối vói đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Viện kiểm sát các cấp.

- Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra các hoạt động công vụ, phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm, thiếu sót, đảm bảo xây dựng đội ngũ nhân lực trong sạch, vững mạnh.

5. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực

- Khẩn trương đề nghị Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội trên cơ sở Trường Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát tại Hà Nội, để sớm tuyển sinh đào tạo cử nhân luật chuyên ngành Kiểm sát, nhằm góp phần khắc phục tình trạng thiếu nguồn tuyển dụng và mất cân đối về cơ cấu cán bộ, công chức hiện nay; tích cực triển khai dự án xây dựng cơ sở 2 Trường Đại học Kiểm sát tại huyện Chương Mỹ, Hà Nội;

- Trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đổi tên Phân hiệu Trường Đào tạo bồi dưõng nghiệp vụ kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh thành Trường Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát;

- Xây dựng Dự án quy hoạch và phát triển mạng lưới các Trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ theo khu vực, để từng bước thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc đối với cán bộ, công chức; khuyến khích các VKSND cấp tỉnh tự tổ chức các lớp bồi dưỡng cho cán bộ, công chức theo nhu cầu của địa phương.

- Thực hiện đồng bộ các giải pháp theo Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011- 2015 đã được Phê duyệt và tổ chức tổng kết, đánh giá, phát triển bổ sung để triển khai đến năm 2020.

- Xây dựng Đề án về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2012-2020 trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, để làm căn cứ cho việc triển khai các hoạt động cụ thể về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực.

- Tiếp tục kiện toàn đội ngũ giảng viên về số lượng và chất lượng cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Ngành; có cơ chế giữ và thu hút nhân lực có trình độ cao về pháp luật và chuyên môn nghiệp vụ đến công tác tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Ngành.

- Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cao đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế; xây dựng cơ chế khuyến học trong toàn Ngành.

6. Hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực

- Xây dựng và triển khai thực hiện tốt Đề án trao đổi, đào tạo cán bộ, kiểm sát viên các nước có nền tư pháp tiên tiến, có nền công tố mạnh để gửi người đi đào tạo về kiến thức pháp luật quốc tế, kỹ năng chuyên ngành và ngoại ngữ;

- Mời giảng viên, chuyên gia nước ngoài tham gia giảng dạy cho cán bộ, công chức của Ngành tại Việt Nam;

- Tăng cường hợp tác và thu hút tài trợ của các dự án quốc tế cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực; trang bị tốt các điều kiện, nhất là về trình độ ngoại ngữ cho cán bộ, công chức đáp ứng tiêu chuẩn để được cử đi học ở nước ngoài theo các Đề án của Chính phủ Việt Nam, Ban tổ chức Trung ương Đảng hoặc dự án, quỹ học bổng của một số nước và tổ chức quốc tế.

II. DỰ BÁO NHU CẦU CÁC NGUỒN LỰC

1.Nhu cầu về kinh phí cho xây dựng, phát triển các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng:

- Kinh phí để cải tạo mở rộng và xây dựng mới các hạng mục Trường Đại học Kiểm sát trên cơ sở hiện trạng của Trường Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát hiện nay: 500 tỷ đồng (năm 2009 đã được phê duyệt dự án cải tạo, mở rộng một số hạng mục với tổng vốn đầu tư 280 tỷ đổng, hiện mới hoàn thành một hạng mục);

- Kinh phí để cải tạo mở rông và xây dựng mói một số hạng mục công trình của Trường Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh: 300 tỷ đồng;

- Nâng cấp, cải tạo mở rộng các cơ sở hiện có thành các Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ của Ngành tại Thành phố Vinh- Nghệ An, Thành phố Vũng Tàu và xây mới Trung tâm tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (dự kiến là Thành phố Cần Thơ), Trung tâm tại khu vực Tây Nguyên (dự kiến là Thành phố Buôn Ma Thuột- Đắk Lắk): 200 tỷ đổng.

2.Nhu cầu chi thường xuyên của các cơ sở đào tạo, bổi dưỡng: 50 tỷ đồng/ năm (khi thành lập Đại học Kiểm sát với chức năng, nhiệm vụ đào tạo mới, có quy mô lớn hơn, thì kinh phí chi thường xuyên dự kiến tăng gấp 3 lần so với hiện nay)

3.Nhu cầu chi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hàng năm (nhất là để thực hiện quy định về bồi dưỡng bắt buộc hàng năm): 90 tỷ đồng/năm cho giai đoạn 2012- 2015 và 150 tỷ đồng/năm cho giai đoạn 2016-2020 (dự báo đến 2020 số lượng nhân lực toàn ngành khoảng 25.610 người), trong đó đã bao gồm kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở nước ngoài.

III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN QUY HOẠCH

1. Xây dựng kế hoạch 5 năm và hằng năm để thực hiện (hiện nay Viện trưởng VKSND tối cao đã phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng 5 năm, giai đoạn 2011- 2015) và đã có kế hoạch hằng năm.

2. Xây dựng và thực hiện Đề án về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2012-2020, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt nhằm cụ thể hoá và có nguồn lực tổ chức thực hiện Quy hoạch (trong năm 2013).

3. Thành lập Trường Đại học Kiểm sát; nâng cấp Phân hiệu Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh thành Trường Đào tạo, bổi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát (dự kiến quý II/2013); xây dựng và thực hiện dự án Trường Đại học Kiểm sát (cơ sở 2) tại huyện Chương Mỹ, Hà Nội, dự án về các Trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ khu vực, dự án hợp tác đào tạo cán bộ, công chức với nước ngoài.

4. Xây dựng và thực hiện các Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao; về cơ cấu cán bộ, công chức ngành Kiểm sát nhân dân; về xác định vị trí việc làm trong ngành Kiểm sát nhân dân; về cải cách chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức ngành Kiểm sát nhân dân, trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, phê duyệt (quý II, III/2013).

4. Trách nhiệm thực hiện Quy hoạch:

a) Vụ Tổ chức cán bộ là cơ quan tham mưu giúp Lãnh đạo VKSND tối cao triển khai, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Quy hoạch và trực tiếp tham mưu các nội dung sau:

- Xây dựng kế hoạch 5 năm, hằng năm; tham mưu cho lãnh đạo VKSND tối cao trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tăng biên chế, số lượng kiểm sát viên phù hợp với nhu cầu từng thời điểm;

- Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng và thực hiện các Đề án, dự án về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, đổi mới chính sách đãi ngộ đối với cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân;

- Giúp Lãnh đạo VKSND tối cao phối hợp với các bộ, ban, ngành ở Trung ương và địa phương trong quá trình triển khai thực hiện Quy hoạch.

b) Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của VKSND tối cao thực hiện các nội dung của Quy hoạch theo chức năng, nhiệm vụ được quy định. Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan hoàn tất thủ tục đề nghị Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập Trường Đại học Kiểm sát; xây dựng và triển khai thực hiện dự án về Trường Đại học Kiểm sát (cơ sở 2); xây dựng Dự án thành lập các trung tâm bồi dưỡng cán bộ, công chức khu vực.

c) Vụ Hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp hình sự tham mưu cho Lãnh đạo VKSND tối cao trong việc tổ chức các hình thức hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực; phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ trong việc xây dựng và thực hiện các kế hoạch, chương trình hợp tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực với nước ngoài.

d) Vụ Kế hoạch - Tài chính phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ tham mưu cho Lãnh đạo VKSND tối cao trong việc tính toán nhu cầu kinh phí cho phát triển nhân lực theo Quy hoạch; tham mưu lập các dự án đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác phát triển nhân lực ngành Kiểm sát nhân dân.

đ) Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch 5 năm và hằng năm để thực hiện Quy hoạch trong phạm vi quản lý của cấp mình.

e) Các đơn vị thuộc VKSND tối cao xây dựng Chương trình và triển khai thực hiện Quy hoạch trong phạm vi đơn vị,

g) Viện kiểm sát quân sự Trung ương căn cứ Quy hoạch này và Quy hoạch phát triển nhân lực của Bộ Quốc phòng để lập Quy hoạch phát triển nhân lực hệ thống Viện kiểm sát quân sự các cấp, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 90/QĐ-VKSTCC-V9

Loại văn bảnQuyết định
Số hiệu90/QĐ-VKSTCC-V9
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành12/03/2013
Ngày hiệu lực12/03/2013
Ngày công báo...
Số công báo
Lĩnh vựcBộ máy hành chính, Lao động - Tiền lương
Tình trạng hiệu lựcCòn hiệu lực
Cập nhật11 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Download Văn bản pháp luật 90/QĐ-VKSTCC-V9

Lược đồ Quyết định 90/QĐ-VKSTCC-V9 năm 2013 phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản sửa đổi, bổ sung

        Văn bản bị đính chính

          Văn bản được hướng dẫn

            Văn bản đính chính

              Văn bản bị thay thế

                Văn bản hiện thời

                Quyết định 90/QĐ-VKSTCC-V9 năm 2013 phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực
                Loại văn bảnQuyết định
                Số hiệu90/QĐ-VKSTCC-V9
                Cơ quan ban hànhViện kiểm sát nhân dân tối cao
                Người kýBùi Mạnh Cường
                Ngày ban hành12/03/2013
                Ngày hiệu lực12/03/2013
                Ngày công báo...
                Số công báo
                Lĩnh vựcBộ máy hành chính, Lao động - Tiền lương
                Tình trạng hiệu lựcCòn hiệu lực
                Cập nhật11 năm trước

                Văn bản thay thế

                  Văn bản gốc Quyết định 90/QĐ-VKSTCC-V9 năm 2013 phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực

                  Lịch sử hiệu lực Quyết định 90/QĐ-VKSTCC-V9 năm 2013 phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực

                  • 12/03/2013

                    Văn bản được ban hành

                    Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                  • 12/03/2013

                    Văn bản có hiệu lực

                    Trạng thái: Có hiệu lực