Văn bản khác 01/BC-TLĐ

Thông báo số 01/BC-TLĐ về tổng kết công tác công đoàn năm 2004, nhiệm vụ năm 2005 do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ban hành

Nội dung toàn văn Thông báo 01/BC-TLĐ tổng kết công tác công đoàn 2004, nhiệm vụ 2005


TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 01/BC-TLĐ

Hà Nội, ngày 11 tháng 01 năm 2005 

 

BÁO CÁO

TỔNG KẾT CÔNG TÁC CÔNG ĐOÀN NĂM 2004, NHIỆM VỤ NĂM 2005

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH CÔNG NHÂN VIÊN CHỨC LAO ĐỘNG VÀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN NĂM 2004

I- TÌNH HÌNH CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG

Năm 2004, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, nước ta gặp nhiều khó khăn, thách thức: Dịch cúm gia cầm xảy ra ở hầu hết các tỉnh, TP; rét đậm kéo dài và hạn hán nặng nề ở một số địa phương; giá cả một số mặt hàng nhập khẩu quan trọng (thép, xăng dầu, phân bón…) cũng như giá một số mặt hàng tiêu dùng trong nước tăng cao.

Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành đã kịp thời xử lý, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, bảo đảm cho SXKD, nền kinh tế vẫn duy trì mức tăng trưởng khá: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt gần 7,7% so với năm 2003; dịch vụ đang trên đà phục hồi; xuất khẩu tăng cao; thu ngân sách vượt dự toán đề ra; thu nhập và đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm đáng kể; các lĩnh vực văn hoá, xã hội có bước phát triển mới; an ninh chính trị và ổn định xã hội cơ bản được giữ vững; việc chuẩn bị và tổ chức thành công kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, 50 năm giải phóng thủ đô, 60 năm thành lập Quân đội nhân dân VN và Hội nghị cấp cao á- Âu lần thứ 5 (ASEM-5) tạo cho nước ta một vị thế mới, được thế giới đánh giá cao.

Những thành tựu đó thể hiện những nỗ lực to lớn vượt qua khó khăn của nhân dân và các DN, trong đó có sự đóng góp quan trọng của giai cấp công nhân và tổ chức CĐVN.

Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng chưa thật vững chắc; chỉ số giá tiêu dùng vẫn ở mức cao; quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực còn nhiều bất cập; tình trạng tội phạm và TNXH chưa giảm; TNGT nghiêm trọng vẫn gia tăng; kỷ cương chưa nghiêm cả trong xã hội và trong bộ máy nhà nước…Những yếu kém, khuyết điểm trên có phần trách nhiệm của cán bộ, CNVCLĐ và các cấp CĐ.

Tình hình việc làm của CNLĐ: Trong năm, nhiều KCN tập trung cùng hàng vạn DN mới được thành lập và thị trường xuất khẩu lao động được mở rộng, góp phần tạo thêm việc làm cho hàng triệu lao động. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều ngành, địa phương có tỷ lệ lao động không có hoặc thiếu việc làm từ 5%- 7%. ở những DNNN phải sắp xếp lại, số lượng lao động dôi dư chiếm tỷ lệ cao, bình quân hơn 20%; ngành giáo dục còn 10% giáo viên, khoảng 8 vạn người không đạt chuẩn trong diện dôi dư, chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa. Do sắp xếp lại các DNNN và hình thành một số lĩnh vực sản xuất mới nên sự chuyển dịch lao động ngày càng nhanh giữa các vùng và các lĩnh vực, đang gây sức ép lớn cho công tác quản lý, sử dụng lao động ở nhiều DN thuộc các tỉnh, TP lớn, KCN tập trung, nhất là ngành may, da giày có sự biến động lao động rất cao, bình quân 20%/năm, thậm chí có những DNNQD tới 50-60%/năm, chủ yếu là di chuyển qua lại giữa các DN trong ngành.

Tiền lương của cán bộ, CNVCLĐ: Khu vực HCSN thu nhập ổn định theo thang bậc lương; khu vực SXKD, thu nhập còn khác nhau và chênh lệch giữa các ngành, nghề, giữa DN trung ương và địa phương, giữa kinh tế quốc doanh và NQD. Do sự tăng giá tiêu dùng hàng năm, thực tế thu nhập của người lao động ở DN có vốn ĐTNN vẫn chưa được tính hệ số qui đổi USD ra tiền việt cho phù hợp, nên thu nhập thực tế của người lao động thấp hơn so với những năm trước đây.

Không ít DNNN thuộc địa phương quản lý, do SXKD khó khăn, mức lương bình quân hàng tháng của người lao động rất thấp, thậm chí thấp hơn lương tối thiểu. Vẫn còn nhiều nơi trả lương cho giáo viên mầm non ngoài biên chế, giáo viên nông thôn, vùng đặc biệt khó khăn dưới mức tối thiểu. Chế độ lương mới chưa được thực hiện cũng gây tâm lý băn khoăn, lo lắng trước sự tăng giá nói chung. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, hầu hết các DN làm xây dựng cơ bản bị nợ đọng vốn rất lớn, đã làm giảm tiền lương thực tế của người lao động, nhiều nơi mấy tháng liền công nhân không có lương.

Nhà ở và điều kiện sống của CNLĐ đang là vấn đề rất bức xúc ở các tỉnh, thành phố lớn, các KCN tập trung, có đông CNVCLĐ. Việc qui hoạch, xây dựng các KCN chưa gắn với việc xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi phục vụ công nhân, khiến đa số công nhân phải tự thuê chỗ ở, sống và sinh hoạt trong những khu nhà trọ tạm bợ, là những yếu tố phát sinh tệ nạn xã hội, gây mất trật tự an ninh, an toàn xã hội. Mặc dù đã có Nghị định 71 của Chính Phủ nhưng nhiều nơi không có chính sách ưu đãi về thuế, giá đất, vay vốn…vì vậy, càng nhiều KCN ra đời thì sức ép về nhà ở cho CN càng lớn.

Đời sống văn hoá, tinh thần của CNVCLĐ các cơ quan, đơn vị, DNNN tương đối tốt. ở các DNNQD và các KCN nhìn chung chưa tốt. Một số nơi CĐ đã cố gắng tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao tại các DN, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu của người lao động. Đáng chú ý là ở các KCN có đông CNLĐ, các nhu cầu chính đáng về học tập nâng cao trình độ văn hoá, tay nghề, vui chơi giải trí, dịch vụ… chưa được nhà nước và DN quan tâm. Do thời gian nghỉ rất ít nên nhiều người không được tham gia các sinh hoạt văn hoá tinh thần lành mạnh, tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến tha hoá một bộ phận người lao động và đang làm phát sinh nhiều tiêu cực. Sự mất cân đối về giới, nam ít, nữ nhiều trong các DN ngành dệt- may cũng ảnh hưởng đến việc xây dựng tình yêu, hạnh phúc gia đình. ở một số DN đã có hiện tượng chủ DN là người nước ngoài lôi kéo, dụ dỗ CNLĐ tham gia lập hội, hoạt động truyền đạo trái phép.

Điều kiện và môi trường làm việc: Bên cạnh nhiều DN quan tâm cải thiện điều kiện làm việc vẫn còn không ít DNTN và DN có vốn ĐTNN, điều kiện và môi trường làm việc của người lao động chưa tốt, có những hành xử làm xấu quan hệ lao động, vi phạm pháp luật lao động, phổ biến là: Kéo dài thời gian làm việc, định mức lao động cao, tăng cường độ, tăng ca triền miên; không công khai đơn giá tiền lương, không nâng lương, nâng bậc, phạt trừ tiền lương, không trả lương ngừng việc; quản lý lao động khắc nghiệt, đối xử thô bạo, chửi mắng, đánh, nhục mạ người lao động; sa thải, kỷ luật, chấm dứt HĐLĐ tuỳ tiện…

Tình trạng vi phạm pháp luật về BHXH xảy ra ở tất cả các tỉnh, TP, ngành nghề trong cả nước với mức độ khác nhau. Qua công tác kiểm tra ở tất cả loại hình DN, phát hiện hàng triệu người lao động thuộc diện bắt buộc nhưng chưa tham gia BHXH, thủ tục thanh toán BHXH đối với người lao động còn rườm rà. Nhiều DN NQD chỉ đóng BHXH rất tượng trưng và đối phó bằng cách chỉ đóng cho người lao động với mức lương thấp. Tình trạng chiếm dụng, nợ đọng BHXH khá phổ biến, gây khó khăn và thiệt thòi cho người lao động. Điển hình như: TP Hồ Chí Minh, qua giám sát của HĐND thành phố tại 1 DN là Cty KWang Nam, 100% vốn Hàn Quốc, đã phát hiện suốt 10 năm qua chỉ đóng BHXH cho 400/1350 công nhân, đến nay nợ BHXH lên tới gần 5 tỷ đồng, Tổng Cty giày Hiệp Hưng nợ 9 tỷ đồng; hết quí III/2004, Hà Nội, tổng số tiền nợ lên tới 142,8 tỷ đồng; Bình Dương, tổng số tiền nợ BHXH toàn tỉnh là 80,2 tỷ đồng; Thừa Thiên Huế các DN nợ hơn 25 tỷ đồng; các DN khối nông- lâm trường trong cả nước đang nợ BHXH 130 tỷ đồng và có 15,3% CNLĐ trong danh sách không được đóng BHXH… Nguyên nhân của tình hình trên là do nhiều người sử dụng lao động cố tình lách luật và tìm mọi cách lẩn tránh nghĩa vụ đóng BHXH bắt buộc hoặc chiếm dụng tiền đóng BHXH; có DN sản xuất kinh doanh thua lỗ, không đủ khả năng đóng BHXH; công tác kiểm tra, thanh tra chưa thường xuyên và chế tài xử phạt vi phạm chưa đủ mạnh và thiếu kịp thời nên chưa có tác dụng răn đe. Các cấp CĐ yêu cầu BHXH công khai nội dung sử dụng tiền thưởng, mức lương của ngành BHXH.

Tình hình tranh chấp lao động và đình công: Tính đến ngày 31/12/2004, cả nước đã xảy ra 110 cuộc đình công. Trong đó, 78 cuộc thuộc khu vực DN có vốn ĐTNN (chiếm 70,9%), 30 cuộc thuộc khu vực DNNQD (chiếm 27,3%), DNNN 02 cuộc (chiếm 1,8%). Địa bàn xảy ra đình công chủ yếu tại TP. Hồ Chí Minh (44 cuộc, chiếm 40%), Đồng Nai (28 cuộc, chiếm 25,6%) và Bình Dương (11 cuộc, chiếm 10%), các tỉnh, thành phố khác (27 cuộc, chiếm 24,4%). Các DN có vốn đầu tư của Đài loan, Hàn Quốc xảy ra nhiều cuộc đình công nhất (Đài loan: 35 cuộc, chiếm 31,8%; Hàn Quốc: 25 cuộc, chiếm 22,1%).

Nguyên nhân chủ yếu của các cuộc đình công đều bắt nguồn từ mục đích kinh tế và thuộc quan hệ lao động, do người sử dụng lao động vi phạm pháp luật về HĐLĐ, định mức lao động, tiền lương, thời giờ làm việc nghỉ ngơi, chế độ BHXH, BHYT, an toàn vệ sinh lao động, kéo dài thời gian thử việc, định mức lao động quá cao, tổ chức làm thêm giờ liên tục, nợ lương, chậm trả lương, phạt trừ lương, người lao động phải làm việc trong môi trường, điều kiện không đảm bảo theo quy định của pháp luật về vệ sinh, an toàn lao động…Tất cả các cuộc đình công đều không đúng trình tự qui định của pháp luật.

Tư tưởng, tâm trạng của CNVCLĐ: Mặc dù tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, nhưng tuyệt đại đa số CNVCLĐ luôn tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, giữ vững quan điểm lập trường giai cấp công nhân, góp phần tích cực giữ vững ổn định và phát triển đất nước. CNVCLĐ ngày càng có ý thức tự học tập, nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm để lo cho cuộc sống gia đình và đóng góp cho xã hội. Lo ngại sự phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn và diễn ra nhanh chóng. Bất bình với tình trạng quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước thoái hoá, biến chất. Lo lắng về tiền lương, việc làm, nhà đất, giá cả tăng cao, thu nhập không ổn định, đời sống khó khăn; tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông chậm được khắc phục. Đồng tình, ủng hộ Đảng, Nhà nước, các ngành chức năng xử lý kiên quyết các vụ tiêu cực nhằm giữ nghiêm kỷ cương, phép nước, củng cố lòng tin trong nhân dân.

II- HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN

1- Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX CĐVN và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục.

Đoàn Chủ tịch TLĐ đã chỉ đạo nghiên cứu biên soạn 7 chuyên đề lớn, tổ chức các lớp quán triệt Nghị quyết Đại hội IX CĐVN cho gần 800 cán bộ chủ chốt trong toàn hệ thống CĐ. Trường Đại học Công đoàn đã tổ chức 1 lớp tập huấn cho cán bộ chủ chốt mới chuyển sang làm công tác CĐ; 16 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ CĐ cho 1468 cán bộ. Nhiều LĐLĐ tỉnh, thành phố, CĐ ngành TW tổ chức học tập, triển khai thực hiện Nghị quyết tới cán bộ CĐ các cấp, biên soạn tài liệu phù hợp với đặc điểm của địa phương, ngành để phổ biến đến cơ sở.

Công tác tuyên truyền, giáo dục của CĐ các cấp tập trung vào dịp kỷ niệm 75 năm ngày thành lập CĐVN (28/7/1929 – 28/7/2004) và các ngày lễ lớn của đất nước. Hầu hết LĐLĐ các tỉnh, thành phố, CĐ ngành TW, CĐ cấp trên cơ sở đều tổ chức cho CNVCLĐ học tập các NQ 8,9,10 của BCH TW (khoá IX), tư tưởng HCM, 5 bài giáo dục chính trị cơ bản, NQ Đại hội IX CĐVN, tuyên truyền về CĐ và phổ biến Chương trình giáo dục pháp luật trong CNVCLĐ (giai đoạn 2003 – 2008), cùng nhiều chính sách, chế độ có liên quan trực tiếp đến người lao động bằng nhiều hình thức như: Mít tinh, toạ đàm, hội thảo chuyên đề, tổ chức thi tuyên truyền viên giỏi về tư tưởng HCM, tìm hiểu về GCCN và tổ chức CĐ; phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng đăng tin, bài về phong trào thi đua của CNVCLĐ, về hoạt động và vai trò của tổ chức CĐVN trong thời kỳ đổi mới; tổ chức gặp mặt cán bộ CĐ qua các thời kỳ; trao huy chương “Vì sự nghiệp xây dựng tổ chức CĐ” cho nhiều cán bộ Đảng, chính quyền, các cá nhân có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển tổ chức CĐVN.

Trong năm 2004, nhiều hoạt động VHTT diễn ra sôi nổi, rộng khắp, được tổ chức từ cơ sở đến ngành, địa phương, khu vực, thu hút hàng triệu lượt người tham gia, tạo không khí vui tươi, lành mạnh trong CNVCLĐ.

CĐ các cấp đã thực hiện tốt việc tuyên truyền về bầu cử HĐND 3 cấp, nhiệm kỳ 2004 – 2009; tham gia với Mặt trận Tổ quốc cùng cấp hiệp thương, lấy ý kiến cử tri, giới thiệu người ứng cử; phối hợp với thủ trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức cho CNVCLĐ tìm hiểu Luật bầu cử HĐND và các văn bản liên quan đến công tác bầu cử, góp phần vào thành công của cuộc bầu cử trên toàn quốc.

TLĐ đã tổ chức tập huấn công tác tuyên giáo toàn quốc tại thành phố Đà Nẵng cho gần 200 cán bộ lãnh đạo các LĐLĐ tỉnh, thành phố, CĐ ngành Trung ương và CĐ Tổng công ty trực thuộc. Sinh hoạt báo cáo viên khu vực phía Bắc được duy trì thường xuyên với nội dung phong phú.

Công tác tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị luôn được các cấp CĐ quan tâm và được đông đảo CNVCLĐ tham gia, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng; tham gia sắp xếp lại tổ chức, bộ máy, tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính sự nghiệp và đoàn thể; đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; cải cách thủ tục hành chính cơ quan Nhà nước; bồi dưỡng và giới thiệu hàng vạn CNVCLĐ ưu tú cho Đảng, như Hà Nội có 2837 người được kết nạp Đảng, Hải Phòng 2254 người, Bắc Ninh 700 người...

Kỷ niệm ngày Quốc tế phụ nữ (8/3), Khởi nghĩa Hai Bà Trưng và ngày thành lập Hội LHPNVN (20/10), các cấp CĐ đã có nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao; gặp mặt, toạ đàm ôn lại truyền thống vẻ vang của phụ nữ VN, trao đổi kinh nghiệm công tác vận động phụ nữ; tổ chức hội thi nữ công gia chánh; tặng quà; tuyên dương, khen thưởng những phụ nữ tiêu biểu trong lao động sản xuất và xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhiều LĐLĐ tỉnh, thành phố, CĐ ngành TW đã mở các lớp tập huấn nâng cao kiến thức về giới, pháp luật, nghiệp vụ công tác nữ công cho hàng nghìn nữ CNVCLĐ và cán bộ CĐ.

TLĐ tiếp tục phối hợp với Tổng cục dạy nghề thực hiện Chương trình Liên tịch về dạy nghề cho CNLĐ, tham gia tổ chức Hội thi tay nghề ASEAN đoàn VN đạt kết quả cao; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong công tác bổ túc văn hoá cho người lao động, vận động người sử dụng lao động tạo điều kiện cho CNLĐ tham gia học tập nâng cao trình độ.

Công tác nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong hệ thống CĐ được quan tâm chỉ đạo, nhất là nghiên cứu về công nhân và CĐ, về các chế độ chính sách liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của CNVCLĐ, về môi trường, ATVSLĐ, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới nội dung, phương thức hoạt động CĐ. Đoàn Chủ tịch TLĐ đã ban hành NQ về “Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong tổ chức CĐ”.

Công tác báo chí, xuất bản đã bám sát định hướng chính trị, tập trung tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, về những DN sản xuất kinh doanh giỏi; điều tra, phản ánh, đấu tranh với những vụ việc tiêu cực và đề xuất các giải pháp chống tiêu cực, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động, được dư luận xã hội và người lao động đồng tình, đánh giá cao. Báo Lao động đã được Thủ tướng Phan Văn Khải gửi thư khen (24/7) vì đã góp sức cùng Chính phủ đẩy mạnh cải cách hành chính qua loạt bài “Thủ tục hành chính, nỗi khổ của dân”. TLĐ đã triển khai thực hiện Chỉ thị 42 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản” cho gần 100 cán bộ CĐ làm công tác báo chí, xuất bản và thông qua kế hoạch nâng cao chất lượng các xuất bản phẩm trong hệ thống CĐ cả nước, đáp ứng yêu cầu của CNVCLĐ và bạn đọc.

Trước tình hình TNXH ngày càng tăng (theo báo cáo của 35 LĐLĐ tỉnh, thành phố, số CNLĐ được phát hiện nhiễm HIV/AIDS là 646 người và hơn 3000 người nghiện ma tuý), TLĐ đã chỉ đạo LĐLĐ các tỉnh, thành phố tập trung triển khai thực hiện chương trình phòng chống HIV/AIDS. Nhiều nơi đã tổ chức tập huấn, tổ chức hội thi, nói chuyện chuyên đề, thăm hỏi, động viên các cơ sở và nhân viên y tế đang phục vụ công tác phòng chống AIDS; phối hợp với lực lượng công an lồng ghép nội dung công tác phòng chống ma tuý với việc thực hiện chương trình quốc gia phòng chống tội phạm trong CNVCLĐ. TLĐLĐVN và Bộ Công An đã tổ chức sơ kết 2 năm thực hiện Kế hoạch Liên tịch số 969 về công tác phòng chống ma tuý và ký kết Kế hoạch phối hợp giai đoạn 2004- 2005. Kết quả 2 năm có trên 90% LĐLĐ và CA tỉnh, TP ký kế hoạch Liên tịch PCMT, hàng ngàn cán bộ CĐ được tập huấn và trên 3 triệu lượt CNVCLĐ được tuyên truyền về tác hại, cách phòng chống ma tuý. Nhân tháng hành động phòng chống HIV/AIDS, TLĐ đã phát hành gần 55.000 tờ gấp, áp phích, sổ tay và nhiều tài liệu tuyên truyền khác.

Trong năm, các cấp CĐ tích cực triển khai Pháp lệnh dân số đến đoàn viên nhằm nâng cao nhận thức về chính sách DS- KHHGĐ.

TLĐ phối hợp với Hội đồng Thi đua- Khen thưởng TW, Ban Tư tưởng- Văn hoá TW tổ chức thành công Những ngày hội “Bàn tay vàng- Sản phẩm vàng” chào mừng những ngày lễ lớn 2004- 2005, tiến tới Đại hội Thi đua toàn quốc lần thứ VII, nhằm tôn vinh những thợ giỏi, những sản phẩm đạt chất lượng cao với sự tham dự của 200 DN anh hùng, tiêu biểu thuộc 35 tỉnh, TP và 20 ngành TW, đồng thời tổ chức đi bộ ủng hộ nạn nhân bị nhiễm chất độc màu da cam thu hút hàng vạn người tham gia. Phối hợp với Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia tổ chức sơ kết một năm thực hiện NQ Liên tịch về phối hợp vận động CNVCLĐ trong cả nước bảo đảm TTATGT. Trong năm qua, các địa phương tập huấn cho hơn 2000 cán bộ CĐ và tổ chức hàng trăm buổi tuyên truyền, phổ biến pháp luật, phát hành gần 50.000 tài liệu về ATGT tới người lao động. Hơn 50% số CĐ ngành TW và LĐLĐ các địa phương đã đưa nội dung bảo đảm TTATGT vào hoạt động CĐ.

Đoàn Chủ tịch TLĐ đã ra Nghị quyết số 01/NQ-TLĐ về “Nâng cao chất lượng hoạt động và quản lý các nhà văn hoá lao động” nhằm đưa hoạt động của hệ thống Nhà văn hoá CĐ trở thành trung tâm tập hợp, giáo dục, hoạt động văn hoá thể thao, vui chơi giải trí và đào tạo bồi dưỡng hạt nhân cho phong trào ở cơ sở, phù hợp với cơ chế thị trường và điều kiện sống, làm việc, sinh hoạt, nhu cầu, nguyện vọng của CNVCLĐ thuộc mọi thành phần kinh tế.

2- Phong trào thi đua yêu nước trong CNVCLĐ lập thành tích chào mừng kỷ niệm 75 năm thành lập CĐVN và các ngày lễ lớn của đất nước diễn ra sôi nổi, rộng khắp, góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, xã hội.

Phong trào thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 75 năm thành lập CĐVN và các ngày lễ lớn của đất nước được đông đảo CNVCLĐ tích cực tham gia. Các phong trào thi đua: “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, phong trào xây dựng cơ quan, đơn vị văn hoá, cuộc vận động xây dựng người “Cán bộ, công chức trung thành, sáng tạo, tận tụy, gương mẫu”… đã phát huy trí tuệ, tinh thần sáng tạo của CNVCLĐ. Qua các phong trào thi đua, đã có hàng chục vạn công trình, sản phẩm, sáng kiến được được đưa vào ứng dụng, làm lợi hàng trăm tỷ đồng, nhiều công trình được gắn biển chào mừng 75 năm thành lập CĐVN; tổ chức gặp mặt tập thể và cá nhân anh hùng lao động thời kỳ đổi mới; trưng bày triển lãm sản phẩm chất lượng cao của người lao động; tổ chức đón nhận các phần thưởng và danh hiệu cao quý do Nhà nước và TLĐ trao tặng.

TLĐ cùng Hội đồng Thi đua Khen thưởng TW, Đài truyền hình VN, Đài tiếng nói VN, Báo Lao động phối hợp tổ chức Chương trình Vinh quang VN nhằm tôn vinh những tập thể và cá nhân anh hùng, những gương mặt tiêu biểu đóng góp cho sự phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

Các cấp CĐ đã phối hợp với ngành NN- PTNT tổ chức tổng kết phong trào CNVCLĐ thi đua phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn theo tinh thần NQ Liên tịch số 02/ NQLT/ TLĐ- NN & PTNT. Qua 5 năm thực hiện đã khẳng định những đóng góp quan trọng của tổ chức CĐ trong việc thực hiện các chương trình, mục tiêu phát triển toàn diện SX nông nghiệp, xây dựng KTXH nông thôn. TLĐ đã tổ chức Hội nghị Biểu dương nữ CNVCLĐ khắc phục khó khăn, lao động giỏi, nuôi con học giỏi nhằm động viên, khích lệ, tôn vinh những tấm gương tiêu biểu, nỗ lực vượt khó, phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Thực hiện Luật Thi đua, khen thưởng, Đoàn Chủ tịch TLĐ đã ban hành Quy chế và Thông tri hướng dẫn về công tác thi đua, khen thưởng của tổ chức CĐ phù hợp với tình hình mới.

Năm 2004 (đến 20/11), TLĐ đã tặng 485 cờ thưởng các loại, 4024 bằng khen của BCH TLĐ, 677 Bằng khen và Huy hiệu lao động sáng tạo. Đoàn Chủ tịch TLĐ đã đề nghị và được Chủ tịch nước tặng 22 Huân chương các loại và Thủ tướng Chính phủ tặng cờ và Bằng khen cho 39 tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc.

3- Công tác tham gia quản lý, xây dựng, kiểm tra, giám sát thực hiện luật pháp, chính sách, tăng cường các hoạt động xã hội, giải quyết việc làm, chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ.

Trong năm qua, các cấp CĐ đã tổ chức lấy ý kiến đóng góp xây dựng 15 dự án luật và nhiều chính sách, chế độ có liên quan trực tiếp đến CNVCLĐ và CĐ như: Luật Phá sản doanh nghiệp, dự án Luật Cạnh tranh, Luật Thuế sử dụng đất; Pháp lệnh về đình công và giải quyết đình công…, tham gia nghiên cứu, xây dựng các dự thảo văn bản về chính sách tiền lương mới và nhiều nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành.

Đoàn Chủ tịch TLĐ đã chủ động cùng một số ngành hữu quan tích cực tham gia giải quyết một số vấn đề bức xúc có liên quan đến việc làm, thu nhập ở một số lĩnh vực trọng điểm, kiểm tra việc thi hành Bộ luật lao động ở 8 tổng công ty nhà nước và 40 CĐCS. Tập thể Đoàn Chủ tịch đã làm việc với CĐ Giao thông vận tải VN kịp thời kiến nghị Chính phủ tháo gỡ khó khăn nợ đọng vốn xây dựng cơ bản; làm việc với CĐ Công nghiệp VN, CĐ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn VN nắm bắt tình hình chung, đồng thời kiến nghị với Nhà nước các chính sách có liên quan đến đời sống CNVCLĐ.

Các cấp CĐ đã tích cực tham gia các Ban đổi mới DNNN trong việc sắp xếp, chuyển đổi DN, nhằm đảm bảo định hướng, giải quyết được những vướng mắc nảy sinh trong quá trình bố trí, sắp xếp lao động, bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Trong năm đã tham gia sắp xếp 615 DNNN, xét trợ cấp cho hơn 30.000 lao động dôi dư với số tiền 892,4 tỷ đồng. Nhìn chung việc giải quyết chế độ cho người lao động trong quá trình sắp xếp lại DN được đảm bảo, người lao động đồng tình.

TLĐ và các LĐLĐ tỉnh, TP, CĐ ngành TW, CĐ cấp trên cơ sở đã tiến hành khảo sát, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện qui chế dân chủ cơ sở. Kết quả cho thấy: tỷ lệ mở đại hội CNVC ở DNNN đạt 91% và hội nghị CBCC ở các cơ quan, đơn vị HCSN đạt 92%. Một số DN NQD và DN có vốn ĐTNN đã vận dụng cách thức, nội dung Đại hội CNVC ở DNNN để tổ chức Hội nghị CNLĐ, tạo điều kiện cho người lao động được trực tiếp tham gia các lĩnh vực hoạt động của DN. Tuy nhiên, việc xây dựng và thực hiện qui chế dân chủ cơ sở chưa đồng đều, chất lượng còn hạn chế. Việc thương lượng và ký TƯLĐTT giữa CĐ với người sử dụng lao động chỉ đạt 64%, phần lớn còn rập khuôn theo quy định của Bộ Luật Lao động, chỉ có 57% DN có qui chế phối hợp giữa CĐ với giám đốc. Bầu Ban TTND đạt 95% nhưng hoạt động còn hình thức, ít hiệu quả.

Các hoạt động xã hội của CĐ được đẩy mạnh trong các dịp ngày lễ, tết, kỷ niệm với nhiều hình thức phong phú. Điển hình là hoạt động của Quĩ Tấm lòng vàng Lao động, Chương trình “Góp tết với người nghèo đón Xuân 2004” và “Giúp đỡ các trường hợp TNLĐ và bệnh nghề nghiệp có nhiều khó khăn”, Chương trình “Chỗ trọ miễn phí cho sinh viên nghèo thi đại học” của Báo Lao động phối hợp với LĐLĐ 12 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Thực hiện chương trình hành động CĐ tham gia xoá đói, giảm nghèo, nhiều LĐLĐ tỉnh, TP, CĐ ngành TW đã đa dạng các nguồn vốn vay, lập quỹ từ sự hỗ trợ, đóng góp của CNVCLĐ tại cơ sở và địa phương như: Quỹ CEP của LĐLĐ TP Hồ Chí Minh; chương trình học bổng Nguyễn Đức Cảnh của các cấp CĐ thành phố đã động viên, giúp đỡ hàng nghìn con em CNVCLĐ vượt qua khó khăn, phấn đấu vươn lên. Ngoài ra, CĐ các cấp tích cực vận động lấy hàng triệu chữ ký ủng hộ và quyên góp được hơn 2 tỷ đồng giúp nạn nhân bị nhiễm chất độc màu da cam, đóng góp mua trái phiếu Chính phủ, mua công trái giáo dục, xây dựng nhà tình thương, tình nghĩa, quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ vì người nghèo… giá trị hàng trăm tỉ đồng; các cấp CĐ đã vận động nữ CNVCLĐ cả nước đóng góp hơn 2,8 tỷ đồng tôn tạo khu di tích lịch sử đền thờ Hai Bà Trưng ở Mê Linh, Vĩnh Phúc.

Chương trình vay vốn từ Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm qua kênh TLĐ (đến 15/11/ 2004), đã cho vay từ nguồn vốn mới và vốn đến hạn thu hồi 343 lượt dự án với số tiền 21,569 tỷ đồng, hỗ trợ giải quyết việc làm cho 8848 lao động tham gia dự án, tạo việc làm mới cho 7063 lao động mới, trong số 6620 hộ vay. Quĩ “Vì nữ CNLĐ nghèo” với số dư hơn 200 tỷ đồng, đã cho 4 vạn lượt người vay phát triển kinh tế gia đình. Ngoài ra, các cấp CĐ ở nhiều LĐLĐ tỉnh, thành phố còn thực hiện việc bảo lãnh, tín chấp cho người lao động vay vốn số tiền hàng trăm tỷ đồng. Hầu hết các dự án triển khai đều đúng đối tượng, có hiệu quả, không thất thoát vốn. TLĐ đã tham gia với liên bộ Tài chính -LĐTBXH - Kho bạc Nhà nước - Ngân hàng Chính sách xã hội TW về một số biện pháp cần thiết để đáp ứng yêu cầu vay vốn của CNVCLĐ. Hệ thống 3 trường dạy nghề và 42 trung tâm DVVL của CĐ đã đào tạo, liên kết đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, hướng nghiệp cho hàng chục ngàn người.

Đoàn Chủ tịch TLĐ đã ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động tư vấn pháp luật của CĐ và Quy chế tổ chức, hoạt động của Trung tâm tư vấn pháp luật CĐ. Hoạt động của 22 đơn vị tư vấn pháp luật CĐ (7 trung tâm, 10 văn phòng, 05 tổ) đã góp phần nâng cao hiểu biết, xây dựng ý thức chấp hành pháp luật, bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động.

TLĐ đã chủ động và tích cực tham gia các hoạt động trong Tuần lễ quốc gia về ATVSLĐ và PCCN lần thứ 6, tổ chức tại thành phố Cần Thơ. Trong dịp này, các cấp CĐ ở nhiều địa phương, ngành, cơ sở đã cùng chính quyền đồng cấp phối hợp tổ chức nhiều hoạt động như: tuyên truyền về ATVSLĐ - PCCN trên các phương tiện thông tin đại chúng; phát động phong trào trồng cây xanh, đảm bảo cảnh quan, môi trường nơi làm việc, nhà xưởng Xanh - sạch - đẹp; tổ chức cuộc thi “An toàn vệ sinh viên giỏi”. Đã có 31 LĐLĐ tổ chức mít tinh phát động tuần lễ ATVSLĐ, phổ biến hơn 11 nghìn áp phích, tranh cổ động và gần 400 nghìn tờ gấp về BHLĐ.

TLĐ và nhiều ngành, địa phương, cơ sở đã mở các lớp tập huấn nghiệp vụ công tác BHLĐ cho hơn 200.000 cán bộ CĐ và CNVCLĐ; thực hiện 2330 cuộc tự kiểm tra và 2537 cuộc kiểm tra liên ngành; tổ chức 72 cuộc thi về ATVSLĐ…

Theo thống kê chưa đầy đủ, tính đến 22/11/2004, cả nước đã xảy ra 351 vụ TNLĐ chết người, làm 373 người chết. Các tỉnh có nhiều TNLĐ chết người là: TP. Hồ Chí Minh 53 vụ, 54 người chết; Hà Nội 26 vụ, 27 người chết; Đồng Nai 39 vụ, 39 người chết; Bình Dương 19 vụ, 19 người chết; Quảng Ninh 15 vụ, 19 người chết; các đơn vị thuộc Bộ Công Nghiệp quản lý đã xảy ra 24 vụ, 28 người chết; Xây Dựng 25 vụ, 26 người chết; GTVT 15 vụ, 21 người chết. TNLĐ chết người do điện chiếm gần 21%, ngã cao 15%, máy và thiết bị gần 11%, vật đổ rơi đè 10% và xảy ra trong DNNN hơn 50%, DNNQD hơn 46%. Trên thực tế, số lượng các vụ TNLĐ còn lớn hơn rất nhiều. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến TNLĐ là người sử dụng lao động và người lao động vi phạm các quy định về ATVSLĐ (chiếm hơn 88%); nhiều nơi người sử dụng lao động và người lao động không được huấn luyện về ATLĐ, nhất là số lao động tự do, hợp đồng thời vụ, ngắn hạn; công tác thanh tra, kiểm tra không được tiến hành thường xuyên; tình trạng vi phạm, nguy cơ dẫn đến TNLĐ không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời; việc điều tra, xác minh, xử lý vi phạm chậm, chưa có tác dụng giáo dục và ngăn ngừa; mạng lưới ATVS viên ở một số cơ sở hoạt động kém hiệu quả. Các đoàn điều tra TNLĐ đã đề nghị khởi tố 09 vụ TNLĐ nghiêm trọng, trong đó riêng TP. Hồ Chí Minh đề nghị khởi tố 08 vụ.

4- Chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX CĐVN về Chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên, TLĐ đã khảo sát tại một số tỉnh kinh tế trọng điểm, nơi tập trung đông CNLĐ và tổ chức các cuộc hội thảo nhằm tìm ra các giải pháp thực hiện có hiệu quả chương trình này. Các LĐLĐ tỉnh, thành phố, CĐ ngành TW, CĐ cấp trên cơ sở đã xây dựng kế hoạch toàn khoá, từng năm và giao chỉ tiêu cho cấp dưới, tích cực tuyên truyền, phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS mới, đặc biệt ở khu vực kinh tế NQD, có vốn ĐTNN, xã, phường, thị trấn. Một số LĐLĐ địa phương đã tham mưu cho cấp uỷ ban hành NQ hoặc chỉ thị “Về lãnh đạo, chỉ đạo công tác phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS trong các DN, trường dân lập và CĐ xã, phường, thị trấn”, tranh thủ sự hỗ trợ của chính quyền cùng cấp; tổ chức hội thảo, gặp mặt các chủ DN trên địa bàn…

Theo kế hoạch của 76 LĐLĐ tỉnh, TP, CĐ ngành TW và CĐ Tổng Cty trực thuộc TLĐ, đến 08/11/2004, các cấp CĐ đã đăng ký trong nhiệm kỳ 2003- 2008 sẽ phát triển mới 1.424.594 đoàn viên. Đến nay, theo báo cáo của 50 ngành, địa phương, đã phát triển mới được 341.198 đoàn viên, đạt 110,16% kế hoạch cả nước, 125,61% so kế hoạch của 50 đơn vị báo cáo và 3146 CĐCS. Sở dĩ số đoàn viên và CĐCS phát triển chưa được nhiều nguyên nhân chủ yếu là do các chủ DN né tránh thành lập CĐ; phần lớn DN có qui mô nhỏ, vốn ít; lực lượng lao động thường xuyên biến động, hầu hết là hợp đồng thời vụ, chưa tha thiết tham gia tổ chức CĐ. Đồng thời, việc triển khai của các cấp CĐ còn chậm và thiếu đồng bộ; công tác tuyên truyền chưa được đầu tư đúng mức; năng lực và trình độ của cán bộ CĐCS còn nhiều hạn chế, phụ thuộc giới chủ nên dè dặt, ngại va chạm với giới chủ khi quyền lợi của người lao động bị vi phạm. Mặt khác, do thiếu kinh phí và biên chế cán bộ nên nhiều địa phương càng phát triển đoàn viên, thành lập tổ chức CĐ càng gặp khó khăn. Việc theo dõi, nắm bắt số lượng đoàn viên di chuyển và thôi không tham gia tổ chức công đoàn chưa được tổng hợp kịp thời.

5- Công tác xây dựng tổ chức Công đoàn.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ được TLĐ và các cấp CĐ thường xuyên thực hiện. Hàng vạn cán bộ, nhất là cấp cơ sở được tổ chức học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ công tác CĐ. Bên cạnh các lớp tập huấn do các cấp CĐ tổ chức, trường Đại học CĐ đã mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng cho các cán bộ hệ đại học chính qui tập trung, hệ đại học tại chức, lý luận và nghiệp vụ CĐ.

Đoàn Chủ tịch đã đề ra chủ trương củng cố, phân công nhiệm vụ cho các trường CĐ, nghiên cứu xây dựng một số trường CĐ khu vực nhằm tạo nên sự thống nhất trong toàn hệ thống thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đúng hướng, ổn định, có chất lượng, hiệu quả, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới. TLĐ đã thành lập Ban soạn thảo bộ tài liệu huấn luyện cán bộ CĐCS để thống nhất nội dung huấn luyện trong hệ thống CĐ. TLĐ ban hành quy định về hoạt động CĐ trong các công ty cổ phần, tập trung vào các vấn đề bức xúc như thực hiện quy chế dân chủ, hình thức mở đại hội CNVC, bảo vệ quyền lợi người lao động trong công ty cổ phần.

Các LĐLĐ tỉnh, thành phố, CĐ ngành TW đã kiểm tra, phân loại CĐCS năm 2003. Tính bình quân chung, tỷ lệ CĐCS đạt tiêu chuẩn vững mạnh ở các tỉnh, thành phố, công đoàn ngành TW đạt từ 70% trở lên. Tuy nhiên, số CĐCS đạt tiêu chuẩn vững mạnh chủ yếu tập trung ở doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, còn ở những CĐCS ngoài quốc doanh và nghiệp đoàn đạt tỷ lệ thấp; việc chấm điểm, đánh giá phân loại nhiều nơi chưa phản ánh đúng thực chất hoạt động CĐ ở cơ sở.

Công tác tổ chức, cán bộ của hệ thống CĐ từng bước đi vào ổn định. Tuy nhiên, ở một số nơi, công tác này còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về qui hoạch, quản lý, luân chuyển cán bộ. Biên chế cán bộ chuyên trách CĐ cấp huyện quá thiếu, phần lớn chỉ có 1- 2 người, lại phải đảm nhận nhiều công việc khác do cấp uỷ đảng phân công nên không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhất là khi xây dựng và phát triển CĐ xã, phường, thị trấn theo quy định của Điều lệ CĐVN. Cho đến nay Ban Tổ chức TW chưa thông báo biên chế cán bộ CĐ chuyên trách năm 2004 cho nhiều địa phương. Chế độ phụ cấp cho cán bộ CĐCS ở địa phương còn khó khăn do thiếu kinh phí. Một số CĐ ngành TW và LĐLĐ tỉnh phối hợp chưa tốt trong chỉ đạo CĐ trực thuộc ngành đóng tại địa phương. Tổ chức và hoạt động của CĐCS ở các DNNN đã CPH 100% gặp nhiều vướng mắc, vị thế và vai trò giám sát của CĐ bị giảm sút. Việc bàn giao CĐCS thuộc ngành TW đã CPH mà nhà nước không giữ cổ phần chi phối cho địa phương quản lý theo qui định của TLĐ chưa được nhiều.

Năm 2004, Đoàn Chủ tịch TLĐ đã làm việc với Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động TBXH, Ban Tổ chức TW, Ban dân vận TW về tình hình CNVCLĐ, kết quả hoạt động của CĐ và kiến nghị một số vấn đề lớn liên quan đến CNVCLĐ, tạo điều kiện cho công đoàn tham gia quản lý nhà nước, sắp xếp lại DN theo tinh thần nghị quyết TW3; đề nghị xử lý các DN trốn đóng BHXH; tăng cường công tác thanh tra nhà nước về BHLĐ nhằm hạn chế tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; chính sách tiền lương; chính sách nhà ở cho người lao động, đặc biệt là người lao động có thu nhập thấp, lao động trong các KCN, KCX; tổ chức, quản lý lực lượng lao động đang làm việc ở nước ngoài; tạo điều kiện phát triển công đoàn NQD; chính sách đào tạo cán bộ từ công nhân. Đồng thời, Đoàn Chủ tịch TLĐ cũng đã ký kết Chương trình hợp tác với Phòng Thương mại và Công nghiệp VN; NQ Liên tịch về Phối hợp hành động bảo vệ môi trường với Bộ Tài nguyên và Môi trường; Chương trình phối hợp hoạt động về Phát huy vai trò của CĐ trong việc xây dựng và phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2005- 2010. Nhiều LĐLĐ tỉnh, TP đã tổ chức hội nghị liên tịch đánh giá kết quả phối hợp hoạt động giữa LĐLĐ với UBND và các ngành, đoàn thể năm 2004, xây dựng chương trình phối hợp năm 2005, phối hợp với các ngành chức năng kiểm tra việc thi hành chính sách, pháp luật tại nhiều cơ sở. TLĐ và một số LĐLĐ tỉnh, TP đã tổ chức gặp mặt, đối thoại với các nhà đầu tư nước ngoài, làm cho họ hiểu rõ hơn về tổ chức CĐ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của CĐCS.

6- Hoạt động đối ngoại: Trong năm 2004, TLĐ đã cử 60 đoàn với 180 lượt cán bộ CĐ các cấp đi công tác nước ngoài và đón 58 đoàn đại biểu CĐ các nước với 250 lượt cán bộ, chuyên gia vào thăm và làm việc với CĐVN. Các quan hệ quốc tế song phương và đa phương của CĐVN được mở rộng và tăng cường theo đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập quốc tế. Thông qua các hoạt động quốc tế, CĐVN đã tranh thủ trao đổi kinh nghiệm hoạt động với CĐ các nước và nhận được sự đồng tình, ủng hộ, sự hợp tác, hỗ trợ về kỹ thuật, tài chính của CĐ các nước, của tổ chức lao động quốc tế (ILO), của các tổ chức phi chính phủ (NGO), góp phần nâng cao vị thế của CĐVN, mang lại nhiều hiệu quả thiết thực.

7- Hoạt động của UBKT (UBKT có báo cáo riêng).

8- Công tác tài chính và hoạt động kinh tế CĐ.

Đoàn Chủ tịch TLĐ đã tranh thủ sự giúp đỡ của Bộ Tài chính cùng chỉ đạo các sở tài chính, LĐLĐ các tỉnh, TP đảm bảo thu kinh phí CĐ đạt kế hoạch, góp phần tạo điều kiện cho tổ chức CĐ hoạt động. Tuy nhiên, tình trạng thất thu tài chính vẫn còn xảy ra khá phổ biến, thu kinh phí CĐ khu vực NQD nhiều địa phương chỉ đạt 20- 25%. Việc quản lý tài chính, tài sản CĐ một số nơi còn bị buông lỏng, chi tiêu chưa đúng qui định của nhà nước và của TLĐ. Hoạt động kinh tế còn nhiều hạn chế. Nhiều DN hoạt động kém hiệu quả. Việc chuyển đổi các DN, khách sạn CĐ sang công ty TNHH một thành viên còn chậm.

Tóm lại, năm 2004, vượt qua nhiều khó khăn, các cấp CĐ đã nhanh chóng triển khai, cụ thể hoá NQ Đại hội IX CĐVN vào thực tiễn phong trào công nhân và hoạt động CĐ. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở, vì quyền lợi của đoàn viên và người lao động. Tổ chức CĐ và CNVCLĐ giữ vai trò nòng cốt trong các phong trào thi đua yêu nước và các hoạt động xã hội; tích cực tham gia xây dựng và kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật, chính sách có liên quan đến CNVCLĐ và tổ chức CĐ; chăm lo đời sống bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động. Vận động CNVCLĐ tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội. Đẩy mạnh công tác phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức CĐ vững mạnh. Hoạt động CĐ đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế đất nước.

Phần thứ hai

NHIỆM VỤ CHỦ YẾU CỦA CÁC CẤP CÔNG ĐOÀN NĂM 2005

Năm 2005, năm cuối cùng thực hiện NQ Đại hội IX của Đảng và kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2001- 2005 với nhiệm vụ còn lại rất nặng nề, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thuận lợi đan xen với những khó khăn, thách thức. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cho nước ta có thêm thế và lực mới, thêm cơ hội thu hút đầu tư, mở rộng thị trường. Nhờ đó, nhiều ngành kinh tế sẽ phát triển, tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải đẩy mạnh quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN. Sự chuyển dịch lao động giữa các thành phần kinh tế và lực lượng lao động ở khu vực kinh tế NQD và DN có vốn ĐTNN sẽ phát triển rất nhanh. Sẽ có một bộ phận lao động giản đơn, trình độ thấp mất việc làm, sự phân hoá giàu- nghèo, cạnh tranh về lao động gay gắt hơn. Nhiều địa phương sẽ có những chuyển đổi nhanh về cơ cấu lao động. Điều kiện lao động ở các ngành nghề, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động dễ bị xâm phạm hơn trong khi trình độ hiểu biết của người lao động về pháp luật, VHXH còn hạn chế, tác phong và kỷ luật lao động chưa cao, mối quan hệ lao động sẽ diễn biến phức tạp hơn. Tệ tham nhũng, lãng phí và các TNXH còn diễn biến phức tạp.

Năm 2005, năm thứ hai thực hiện NQ Đại hội IX CĐVN, năm có nhiều ngày kỷ niệm và sự kiện lớn của đất nước: 75 năm Ngày thành lập Đảng CSVN (3/2/1930- 3/2/2005), 30 năm Ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975- 30/4/2005), 115 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890- 19/5/2005), 60 năm Cách mạng tháng 8 (19/8/1945- 19/8/2005) và Quốc khánh (2/9/1945- 2/9/2005), Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ VII. Tình hình trên đặt ra cho tổ chức CĐ yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong tổ chức và phương thức hoạt động theo tinh thần NQ Đại hội IX CĐVN, động viên CNVCLĐ cả nước ra sức phấn đấu góp phần tăng trưởng kinh tế, giữ vững an ninh chính trị- xã hội đất nước.

Năm 2005, các cấp CĐ cần tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu sau:

1- Phát động phong trào thi đua yêu nước trong CNVCLĐ góp phần tích cực thực hiện thắng lợi mục tiêu KTXH năm 2005, chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước, Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Thi đua toàn quốc lần thứ VII.

- Quán triệt Chỉ thị 39- CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết nhân điển hình tiên tiến” và Chỉ thị số 31/2004/CT-TTg ngày 08/9/2004 của Thủ tướng Chính Phủ phát động đợt thi đua đặc biệt đến hết năm 2005 nhằm thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2001- 2005 và kế hoạch năm 2005, thiết thực lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn trong năm 2004- 2005 và Đại hội Thi đua toàn quốc lần thứ VII. Gắn đợt thi đua đặc biệt này với đại hội Đảng các cấp.

- Phát động phong trào thực hành tiết kiệm, chống lãng phí gắn với phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, Xanh, sạch, đẹp, đảm bảo ATVSLĐ. Chú trọng nội dung thi đua nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu, hạ giá thành, đảm bảo cạnh tranh thắng lợi ở thị trường trong nước và quốc tế. Tiếp tục duy trì và phát triển phong trào “Thi đua liên kết phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn”; động viên CNVCLĐ thi đua thực hiện chương trình ký kết liên tịch phục vụ nông nghiệp, góp phần củng cố vững chắc khối liên minh công- nông- trí thức. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” và phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” trong nữ CNVCLĐ; đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng người cán bộ, công chức, viên chức “Trung thành, Sáng tạo, Tận tuỵ, Gương mẫu” tập trung vào cải cách hành chính, chống tham nhũng, tiêu cực. Đăng ký và thực hiện nhiều công trình, sản phẩm, sáng kiến, tiết kiệm chào mừng các ngày lễ và sự kiện lớn của đất nước.

- Chỉ đạo thực hiện tốt Luật Thi đua, khen thưởng và Qui chế Thi đua, khen thưởng của CĐ. Tham gia xây dựng danh hiệu, tiêu chuẩn, chính sách, chế độ thi đua, khen thưởng phù hợp với đặc điểm ngành, nghề ở từng địa phương, cơ sở, nhằm tạo động lực, thực sự có tác dụng kích thích phong trào thi đua.

- Nghiên cứu xây dựng trình BCHTLĐ vấn đề “Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến CNVCLĐ và vai trò của tổ chức CĐ”.

- Tổ chức tốt Đại hội thi đua các cấp và Đại hội thi đua CNVCLĐ toàn quốc. Phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp VN xét và trao cúp cho 10 DNTN tiêu biểu năm 2004.

2- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục CNVCLĐ, nhất là trong dịp Đại hội Đảng các cấp và kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước.

- Mở đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn trong CNVCLĐ và các cấp CĐ trong cả nước nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước và chào mừng Đại hội Đảng các cấp, Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ VII. Kiến nghị với nhà nước tổ chức các lớp tập huấn, tuyên truyền luật pháp cho chủ doanh nghiệp để họ hiểu và tôn trọng pháp luật Việt Nam.

Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, VHTT với nhiều nội dung, hình thức phong phú, phù hợp với từng loại hình cơ sở, tạo không khí phấn khởi, sôi nổi, tin tưởng trong CNVCLĐ góp phần nâng cao đời sống văn hoá cơ sở trong DN và cơ quan, đơn vị.

- Tuyên truyền sâu rộng về CĐ và những thành tựu, khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển của đất nước, về tình hình chính trị, thời sự trong nước và thế giới. Đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho CNVCLĐ, nhất là CNVCLĐ ở khu công nghiệp tập trung, khu vực kinh tế NQD, DN có vốn ĐTNN.

- Nắm chắc tình hình tư tưởng, tâm trạng, nguyện vọng của người lao động, kịp thời tham gia giải quyết tốt tranh chấp lao động, tăng cường các biện pháp phòng ngừa đình công bất hợp pháp; kịp thời phản ánh, kiến nghị với Đảng, nhà nước những vấn đề bức xúc liên quan tới CNVCLĐ và CĐ; kiên quyết đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch … góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tiếp tục tổ chức học tập 5 bài chính trị cơ bản, nhất là trong lực lượng lao động trẻ ở khu vực kinh tế NQD và DN có vốn ĐTNN.

- Triển khai Nghị quyết số 02/NQ-TLĐ ngày 05/10/2004 của Đoàn Chủ tịch TLĐ về “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong tổ chức CĐ”; gắn công tác nghiên cứu với ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn hoạt động CĐ.

- Tiếp tục chỉ đạo thực hiện NQ Liên tịch số 01/ TLĐ - UBATGTQG của TLĐ với Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia về tuyên truyền, vận động CNVCLĐ đảm bảo TTATGT; phối hợp với chính quyền tổ chức ký cam kết, đưa nội dung thực hiện ATGT vào tiêu chuẩn bình xét thi đua của CNVCLĐ và CĐCS.

- Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền giáo dục và báo cáo viên của các cấp CĐ. Phát triển các cụm văn hoá - thể thao ở cơ sở. Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động các nhà Văn hoá Lao động, câu lạc bộ theo tinh thần NQ của Đoàn Chủ tịch TLĐ.

- Phát động phong trào học tập nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp, xây dựng tác phong công nghiệp trong CNVCLĐ, nhất là lao động trẻ, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.

- Vận động cán bộ, CNVCLĐ tích cực tham gia xây dựng Đảng trong dịp Đại hội đảng các cấp, chủ động xây dựng nhân sự giới thiệu cán bộ CĐ tham gia cấp uỷ các cấp, nhất là ở cấp cơ sở. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phát triển đảng trong CNVCLĐ theo tinh thần Chỉ thị số 44/CT- TƯ của Ban Bí thư về kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 115 năm ngày sinh của Người. Tham gia cải cách hành chính Nhà nước, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và phòng chống TNXH, HIV/ AIDS.

- Triển khai xây dựng Trung tâm hội nghị và Bảo tàng công nhân.

- Sớm triển khai thực hiện Nghị quyết “CĐ với nhiệm vụ nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp của CNVCLĐ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”.

3- Chủ động nghiên cứu, tham gia xây dựng và kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật, chính sách có liên quan trực tiếp đến CNVCLĐ và CĐ, chăm lo đời sống, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ và đẩy mạnh các hoạt động xã hội của CĐ.

- Tham gia xây dựng luật pháp, chính sách chế độ có liên quan đến CNVCLĐ và tổ chức CĐ theo Chương trình của Quốc hội năm 2005.

- Phối hợp với cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát thực hiện Bộ Luật Lao động đã được sửa đổi, bổ sung và Luật CĐ.

- Nghiên cứu, đề xuất, kiến nghị với Chính phủ và chỉ đạo các cấp CĐ tham gia với chính quyền cùng cấp trong việc xây dựng, ban hành và thực hiện các chính sách về: việc làm, tiền lương, BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp và chính sách xã hội khác; đào tạo và đào tạo lại nghề cho người lao động; xây dựng nhà ở cho người lao động có thu nhập thấp. Phát hiện và kiến nghị sửa đổi những bất hợp lý trong các chính sách, chế độ có liên quan trực tiếp với người lao động, nhất là các chính sách khi thực hiện sắp xếp, cổ phần hoá DNNN.

- Hướng dẫn, kiểm tra việc ký kết HĐLĐ và TƯLĐTT, mở Đại hội CNVC và Hội nghị cán bộ, công chức, xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo đúng qui định của Nhà nước và hướng dẫn của TLĐ. Xây dựng dự thảo NĐ về Qui chế dân chủ ở cơ sở trong các loại hình DN là Cty TNHH, công ty cổ phần. Xây dựng tài liệu hướng dẫn mẫu về các Qui chế dân chủ trong DNNN. Triển khai thực hiện NQ4b của BCHTLĐ về “Nâng cao hiệu quả hoạt động CĐ tham gia xây dựng và thực hiện qui chế dân chủ cơ sở trong cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp”.

- Vận động CNVCLĐ hưởng ứng các hoạt động xã hội. Nâng cao hiệu quả hoạt động vay vốn từ Quĩ quốc gia giải quyết việc làm, góp phần giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo trong CNVCLĐ và trong xã hội.

- Tăng cường kiểm tra công tác BHLĐ. Đẩy mạnh thực hiện các biện pháp cải thiện điều kiện và môi trường lao động nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức “Tuần lễ quốc gia ATVSLĐ và PCCN” lần thứ VII. Nghiên cứu, xây dựng Nghị quyết của Ban Chấp hành TLĐ (khoá IX) về “Đẩy mạnh công tác BHLĐ trong tình hình mới”.

- Nghiên cứu thành lập Trung tâm Thông tin pháp lý và Tư vấn pháp luật TLĐ. Triển khai công tác trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật miễn phí cho người lao động. Thành lập các Văn phòng tư vấn pháp luật, Trung tâm trợ giúp pháp lý của ngành, địa phương theo hướng dẫn của TLĐ. Tham gia xây dựng Pháp lệnh đình công. Nghiên cứu việc CĐVN phối hợp với CĐ các nước trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của lao động VN làm việc ở nước ngoài. Nghiên cứu, xây dựng Nghị quyết của Ban Chấp hành TLĐ về “Đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của tổ chức CĐ”.

- Chủ động gặp mặt, đối thoại giữa tập thể người lao động với thủ trưởng cơ quan, đơn vị, người sử dụng lao động và nhà đầu tư, xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định. Nghiên cứu thành lập “Quĩ hỗ trợ CĐCS” để giúp đỡ, bảo vệ cán bộ, đoàn viên CĐ đấu tranh bảo vệ quyền lợi CNVCLĐ.

- Đẩy mạnh các hoạt động tìm và tạo việc làm cho CNLĐ và có các giải pháp tích cực cùng các ngành chức năng giải quyết vấn đề nhà ở, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá, tinh thần cho người lao động.

4- Tập trung chỉ đạo thực hiện chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên, thành lập CĐCS ở tất cả các thành phần kinh tế, xã, phường, thị trấn.

- Chú trọng tuyên truyền, vận động phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS các thành phần kinh tế, xã, phường, thị trấn, nhất là ở khu vực DN NQD, trước hết là những DN có đủ điều kiện. Phấn đấu năm 2005 kết nạp mới được ít nhất từ 25- 30 vạn đoàn viên. Việc phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS phải coi trọng cả số lượng và chất lượng, tuân thủ đúng quy định của Điều lệ CĐVN. Tổ chức rút kinh nghiệm hơn 1 năm thực hiện chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên, tổng kết hoạt động CĐCS xã, phường…

- Nghiên cứu và thực hiện đề án quản lý đoàn viên. Nắm chắc số đoàn viên, CĐCS phát triển mới và số đoàn viên bị giảm sút do sắp xếp, chuyển đổi hình thức quản lý, phá sản DN.

- Nghiên cứu sửa đổi thông tri hướng dẫn thực hiện Điều lệ Công đoàn Việt Nam cho phù hợp tình hình mới.

5- Đổi mới nội dung, phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ. Củng cố tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của CĐCS.

- Tiếp tục xác định nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động của CĐ NQD. Rút kinh nghiệm hoạt động CĐ trong các KCN, KCX; xác định mô hình tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động trong các DNNN chuyển thành công ty cổ phần. Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ của Ban Chấp hành CĐ lâm thời theo điều 153 của Bộ luật Lao động đã được sửa đổi, bổ sung. Tổng kết công tác xây dựng CĐCS vững mạnh các thành phần kinh tế

- Nghiên cứu kiện toàn, củng cố tổ chức CĐ cấp huyện, thị xã, TP trực thuộc tỉnh, nhất là các tỉnh miền núi, tây nguyên, phù hợp yêu cầu nhiệm vụ chính trị đất nước và phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS. Xây dựng mô hình tổ chức và phương thức hoạt động CĐ công ty mẹ- con, CĐ trong các tập đoàn kinh tế.

- Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết 5b của BCH TLĐ khoá VIII về xây dựng đội ngũ cán bộ CĐ, làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí, đánh giá cán bộ.

- Chủ động tham gia với Đảng về cán bộ CĐ chủ chốt tham gia các cấp uỷ đảng trong quá trình Đại hội Đảng bộ các cấp.

- Tập trung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng hoạt động của cán bộ CĐ các cấp, nhất là cấp cơ sở và cán bộ mới tham gia công tác CĐ. Nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện việc củng cố hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ trong cả nước theo chủ trương của Đoàn Chủ tịch TLĐ. Đổi mới nội dung giảng dạy, nâng cao chất lượng giảng dạy của các trường CĐ.

- Nghiên cứu có mức phụ cấp trách nhiệm cho cán bộ công đoàn xã, phường, thị trấn.

6- Công tác đối ngoại.

- Trên cơ sở đường lối đối ngoại của Đảng, các cấp CĐ chủ động mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân để cán bộ CĐ tiếp cận nhanh với nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế khu vực, thế giới.

- Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nhằm tranh thủ hỗ trợ về chuyên môn, kỹ thuật và tài chính trong việc trao đổi kinh nghiệm hoạt động; đào tạo nâng cao trình độ cán bộ, nhất là về phương thức hoạt động trong nền kinh tế thị trường, kinh nghiệm giải quyết các mối quan hệ lao động, góp phần xây dựng tổ chức CĐVN vững mạnh.

7- Công tác tài chính, kinh tế.

- Có biện pháp quản lý tài chính, tài sản, tích cực làm tốt công tác thu kinh phí và đoàn phí CĐ, chống thất thu và thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà nước và TLĐ về trích nộp, phân phối, chi tiêu kinh phí.

- Rà soát lại các cơ sở làm kinh tế của CĐ để củng cố, sắp xếp lại theo đúng quy định của Nhà nước và hướng dẫn của TLĐ. Mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước.

- Tổ chức chỉ đạo, thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành về “Công tác quản lý tài sản, phát huy năng lực hoạt động của các đơn vị kinh tế CĐ”.

- Quản lý chặt chẽ công tác đầu tư xây dựng cơ bản.

- Trong quản lý kinh phí phải đặc biệt tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, đảm bảo thu, chi theo đúng qui định của nhà nước và của TLĐ. Tăng cường công tác kiểm tra quản lý tài chính đối với các cấp CĐ.

Trên đây là những nội dung chủ yếu trong năm 2005. Từng cấp CĐ cần cụ thể hoá thành chương trình công tác cho phù hợp với đặc điểm, tình hình, yêu cầu thực tiễn của địa phương, ngành, đơn vị cơ sở, có chỉ tiêu, nội dung, biện pháp và định thời gian phấn đấu thực hiện. Đổi mới hơn nữa phương thức hoạt động, đi sâu đi sát cơ sở, chống bệnh hành chính trong chỉ đạo phong trào, đưa phong trào CNVCLĐ và hoạt động CĐ nước ta phát triển mạnh mẽ, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu KTXH của đất nước.

 

T/M. ĐOÀN CHỦ TỊCH TỔNG LIÊN ĐOÀN LĐVN
PHÓ CHỦ TỊCH THƯỜNG TRỰC



 
Đặng Ngọc Tùng

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 01/BC-TLĐ

Loại văn bảnVăn bản khác
Số hiệu01/BC-TLĐ
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành11/01/2005
Ngày hiệu lực11/01/2005
Ngày công báo...
Số công báo
Lĩnh vựcBộ máy hành chính, Lao động - Tiền lương
Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
Cập nhật17 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Download Văn bản pháp luật 01/BC-TLĐ

Lược đồ Thông báo 01/BC-TLĐ tổng kết công tác công đoàn 2004, nhiệm vụ 2005


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản sửa đổi, bổ sung

        Văn bản bị đính chính

          Văn bản được hướng dẫn

            Văn bản đính chính

              Văn bản bị thay thế

                Văn bản hiện thời

                Thông báo 01/BC-TLĐ tổng kết công tác công đoàn 2004, nhiệm vụ 2005
                Loại văn bảnVăn bản khác
                Số hiệu01/BC-TLĐ
                Cơ quan ban hànhTổng liên đoàn Lao động Việt Nam
                Người kýĐặng Ngọc Tùng
                Ngày ban hành11/01/2005
                Ngày hiệu lực11/01/2005
                Ngày công báo...
                Số công báo
                Lĩnh vựcBộ máy hành chính, Lao động - Tiền lương
                Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
                Cập nhật17 năm trước

                Văn bản thay thế

                  Văn bản được căn cứ

                    Văn bản hợp nhất

                      Văn bản gốc Thông báo 01/BC-TLĐ tổng kết công tác công đoàn 2004, nhiệm vụ 2005

                      Lịch sử hiệu lực Thông báo 01/BC-TLĐ tổng kết công tác công đoàn 2004, nhiệm vụ 2005

                      • 11/01/2005

                        Văn bản được ban hành

                        Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                      • 11/01/2005

                        Văn bản có hiệu lực

                        Trạng thái: Có hiệu lực