Thông báo 12/2001/TB-VPCP

Thông báo số 12/2001/TB-VPCP về kết quả hội nghị bàn biện pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2001 và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải tại hội nghị do Chính phủ ban hành

Nội dung toàn văn Thông báo 12/2001/TB-VPCP kết quả hội nghị biện pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2001 kiến chỉ đạo Thủ tướng Phan Văn Khải


VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 12/2001/TB-VPCP

Hà Nội, ngày 21 tháng 2 năm 2001

 

THÔNG BÁO

CỦA VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ SỐ 12/2001/TB -VPCP NGÀY 21 THÁNG 02 NĂM 2001 KẾT QUẢ HỘI NGHỊ CỦA CHÍNH PHỦ BÀN BIỆN PHÁP THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2001 VÀ Ý KIẾN CHỈ ĐẠO CỦA THỦ TƯỚNG PHAN VĂN KHẢI TẠI HỘI NGHỊ

Từ ngày 01 đến ngày 03 tháng 02 năm 2001 tại thành phố Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phan Văn Khải đã chủ trì Hội nghị bàn biện pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2001. Tham dự Hội nghị có đồng chí Trương Mỹ Hoa: Phó Chủ tịch Quốc hội, các Phó Thủ tướng: Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Công Tạn, Nguyễn Mạnh Cầm; lãnh đạo các Bộ, các cơ quan trực thuộc Chính phủ; Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch ủy ban nhân dân và Chánh Văn phòng của 61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; đại diện: Văn phòng TW, Văn phòng Chủ tịch nước, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam và một số cơ quan khác.

1- Hội nghị đã nghe 3 báo cáo: Đổi mới công tác điều hành nhằm thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2001(do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Xuân Giá trình bày); Chương trình cải cách hành chính năm 2001(do Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày) và báo cáo kết quả hoạt động của 6 Đoàn công tác liên ngành Trung ương về giải quyết khiếu tố (do Tổng Thanh tra Nhà nước Tạ Hữu Thanh trình bày). Hội nghị đã chia thành 4 tổ: Tổ vùng miền Núi phía Bắc gồm 13 tỉnh, thành phố; Tổ vùng đồng bằng, Trung du Bắc bộ gồm 15 tỉnh, thành phố; Tổ vùng miền Trung và Tây Nguyên gồm 13 tỉnh, thành phố và Tổ vùng Nam Bộ gồm 20 tỉnh, thành phố để thảo luận. Thủ tướng và các Phó Thủ tướng được phân công trực tiếp làm Tổ trưởng các tổ thảo luận, lãnh đạo các Bộ, ngành Trung ương cùng tham gia.

Đã có 48 đại biểu của 46/61 tỉnh, thành phố phát biểu ý kiến về những khó khăn, thời cơ và thách thức trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển của từng địa phương, từng vùng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, cải cách hành chính...đồng thời kiến nghị các cơ quan có trách nhiệm ở Trung ương tập trung tháo gỡ về cơ chế, chính sách, các vấn đề cụ thể giải phóng sức sản xuất huy động nguồn lực tại các địa phương.

Những ý kiến đóng góp của các địa phương đã được tổng hợp theo các lĩnh vực và chuyển đến các Bộ: Bộ Kế hoạch và Đầu tư , Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thủy Sản, Thanh tra Nhà nước... để giải đáp tại Hội trường.

2- Sau khi các Phó Thủ tướng, các đại biểu phát biểu ý kiến, Thủ tướng đã phát biểu tổng kết Hội nghị, nêu ý kiến và chỉ đạo các biện pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2001, đồng thời yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương cần xây dựng chương trình hoạt động cụ thể để triển khai thực hiện các vấn đề đã được chỉ ra trong bài phát biểu tổng kết của Thủ tướng (xin gửi kèm theo phát biểu tổng kết tại Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ).

3- Thủ tướng yêu cầu Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan trực thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải chủ động giải quyết tháo gỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc để tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Giao thông vận tải, Công nghiệp, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thương mại, Thủy sản, Xây dựng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thanh tra Nhà nước, Tổng cục Địa chính...phải bố trí cán bộ có trình độ để xem xét, giải quyết ngay những vấn đề mà các đại biểu kiến nghị tại Hội nghị. Những vấn đề có liên quan đến nhiều cơ quan thì Bộ, ngành chủ quản phải chủ động phối hợp vơí các cơ quan và địa phương để giải quyết dứt điểm, không được đùn đẩy kéo dài làm cản trở đến hoạt động sản xuất của cơ sở. Những vấn đề vượt quá chức năng thẩm quyền của các Bộ, ngành phải kịp thời tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ, hoặc trình Chính phủ xem xét tháo gỡ.

Văn phòng Chính phủ phối hợp với các cơ quan, địa phương tổng hợp những vấn đề cần được tháo gỡ có liên quan đến quy định của Luật, Pháp lệnh để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội bổ sung, sửa đổi cho phù hợp.

Các Bộ, ngành liên quan phải khẩn trương triển khai thực hiện những công việc được giao, Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc việc thực hiện.

Văn phòng Chính phủ xin thông báo để các cơ quan liên quan thực hiện.

PHÁT BIỂU CỦA THỦ TƯỚNG PHAN VĂN KHẢI TỔNG KẾT HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN KẾ HOẠCH VÀ NGÂN SÁCH NĂM 2001
(họp tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 01- 03/02/2001)

I. VỀ SỰ CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA CHÍNH PHỦ VÀ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG THỜI GIAN QUA

Ngay khi bắt đầu đảm nhận chức trách được Quốc hội và Hội đồng nhân dân giao trong nhiệm kỳ mới, từ cuối năm 1997, Chính phủ và ủy ban nhân dân các địa phương đã phải đối mặt với những khó khăn, thử thách gay gắt. Trong thời gian này, nền kinh tế đang đà giảm sút nhịp độ tăng trưởng, lại chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế trong khu vực cùng với những biến động bất lợi về giá cả nông sản và bị thiên tai liên tiếp gây thiệt hại nặng nề ở nhiều vùng. Bối cảnh đó làm nổi rõ những cố gắng và tiến bộ của Chính phủ và chính quyền địa phương trong sự chỉ đạo thực hiện thắng lợi hầu hết các mục tiêu chủ yếu về nhiệm vụ kinh tế, xã hội và ngân sách năm 2000 theo kết luận của Hội nghị Trung ương 8 (khoá VIII) và Nghị quyết của kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá X, góp phần quan trọng chặn được sự giảm sút nhịp độ tăng trưởng kinh tế và bắt đầu có đà đi lên; duy trì được sự phát triển văn hoá, xã hội; cải thiện đời sống nhân dân; mở rộng quan hệ quốc tế; giữ vững sự ổn định chính trị và quốc phòng, an ninh.

Những thành tựu đã đạt được cùng với những yếu kém về kinh tế, xã hội phản ảnh những ưu điểm và khuyết điểm của Chính phủ và chính quyền địa phương trong quá trình chỉ đạo thực hiện mấy nhiệm vụ, chính sách lớn được xác định trong Nghị quyết Đại hội VIII và Nghị quyết Trung ương 4:

Một là, phát huy nội lực, giải phóng và phát triển mạnh lực lượng sản xuất thông qua cải thiện môi trường pháp chế, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự hoạt động của các thành phần kinh tế, phát huy tiềm năng vật chất, trí tuệ và tinh thần của dân trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội. Đi đôi với việc sắp xếp lại, nâng cao hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước và các cơ sở dịch vụ công lập, tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, nét nổi bật trong thời gian qua là việc xây dựng và triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp, Nghị quyết của Chính phủ về kinh tế trang trại, mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu, phát triển các hình thức dân lập trong giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao... Nhưng kết quả đạt được còn bị hạn chế do sự chậm trễ, bất cập trong việc đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, trong việc tháo gỡ những trở ngại đang kìm hãm khu vực kinh tế dân doanh cũng như trong việc xã hội hoá các dịch vụ công.

Hai là, phát huy tác dụng tích cực của cơ chế thị trường đi đôi với nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước. Trước những biến động bất lợi trong tình hình kinh tế, như nhiều mặt hàng quan trọng bị giảm giá, tiêu thụ khó khăn, dẫn tới giảm phát kéo dài, tỷ giá hối đoái chịu sức ép của khủng hoảng tài chính khu vực..., chúng ta vẫn duy trì được về cơ bản sự ổn định kinh tế vĩ mô. Các biện pháp "kích cầu" lần đầu tiên được áp dụng, sau một thời gian trầm lắng, đã dần dần phát huy tác dụng cả trong đầu tư và tiêu dùng. Biểu hiện rõ nét là giải toả được nhiều mặt hàng tồn kho, đặc biệt là xi măng, sắt thép, đường ăn; trong dịp Tết năm nay thị trường hàng hoá phong phú, sức mua của dân cư tăng, giá cả ổn định. Tuy nhiên, cho đến nay sự phát triển của thị trường còn chưa đồng bộ, có mặt thiếu lành mạnh, sự gắn kết giữa sản xuất và thị trường còn yếu, sự ổn định kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc, sự quản lý của Nhà nước vẫn còn can thiệp quá sâu vào kinh doanh, nhưng chưa bảo đảm được trật tự kỷ cương trong hoạt động kinh tế - xã hội.

Ba là, không ngừng mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thông qua các thoả thuận song phương và đa phương. Trong tình hình rất khó khăn, chúng ta đã cố gắng đẩy mạnh xuất khẩu, tạo được ngày càng nhiều mặt hàng có sức cạnh tranh về chất lượng và giá cả trên thị trường trong nước và quốc tế. Đây là nhân tố quan trọng để nâng cao khả năng độc lập, tự chủ về kinh tế, tăng cường vị thế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Nhưng chúng ta chưa thể yên tâm với bước tiến đã đạt được vì nhìn chung trình độ phát triển kinh tế và công nghệ của nước ta còn thua kém nhiều nước xung quanh, sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, nhiều sản phẩm và dịch vụ quan trọng còn phải dựa vào hàng rào bảo hộ trong khi thời hạn hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới không còn xa.

Bốn là, luôn luôn coi trọng kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát huy nhân tố con người, củng cố quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Những kết quả xoá đói giảm nghèo, đối phó với thiên tai, giảm tỷ lệ tăng dân số, phòng chống dịch bệnh, nâng cao dân trí, giữ gìn bản sắc văn hoá... của nước ta được thế giới đánh giá cao. Sự ổn định chính trị - xã hội là một lợi thế của nước ta trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, sự chỉ đạo và quản lý của Chính phủ và bộ máy hành chính trong lĩnh vực văn hoá, xã hội còn nhiều mặt yếu; khoa học, công nghệ phát triển chậm; chất lượng giáo dục, y tế còn thấp; tình hình xã hội còn nhiều vấn đề gay cấn như việc làm, đời sống một bộ phận nhân dân, tệ nạn xã hội, tội phạm hình sự và gần đây thêm sự gia tăng tai nạn giao thông.

Năm là, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính phù hợp với chức năng quản lý nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo hướng đó, hệ thống thể chế đã có bước đổi mới tích cực nhằm phát huy khả năng của dân, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho dân làm ăn, sinh sống. Song bộ máy và đội ngũ công chức chưa chuyển biến kịp, tình trạng quan liêu, tham nhũng còn nặng, kỷ luật hành chính không nghiêm, không những cản trở thể chế mới đi vào cuộc sống, mà còn gây khó khăn, thiệt hại cho dân, tạo nên bất bình trong xã hội. Khuyết điểm này thuộc trách nhiệm trực tiếp của Chính phủ và chính quyền địa phương.

Thực tiễn thời gian qua càng khẳng định những chủ trương, chính sách lớn nêu trên là những định hướng đổi mới đúng đắn, phải nắm vững và kiên trì thực hiện nhằm nâng cao năng lực và hiệu lực chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và chính quyền địa phương trong thời gian tới.

Mấy vấn đề lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ năm 2001

Bước vào thế kỷ mới, tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi, thời cơ lớn đan xen với nhiều khó khăn, thách thức lớn. Chúng ta phải nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, phát huy ý chí và sức mạnh của toàn dân, đưa đất nước tiến nhanh và vững chắc trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hội nghị chúng ta biểu thị sự nhất trí và quyết tâm cao trong việc phấn đấu thực hiện thắng lợi nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 2001, năm mở đầu thời kỳ tăng tốc về phát triển kinh tế - xã hội để tạo đà cho những năm tiếp theo, đi kịp tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế mà cột mốc quan trọng là thời điểm hội nhập đầy đủ vào AFTA năm 2006. Đó là yêu cầu bức bách của cuộc sống mà chúng ta không thể thoái thác, mặc dù thấy trước là việc thực hiện không dễ dàng, vì tình hình trong nước còn nhiều khó khăn và bối cảnh kinh tế quốc tế diễn biến phức tạp (kinh tế Mỹ đã có biểu hiện trì trệ và dấu hiệu suy thoái, nhiều dự báo đánh giá nhịp độ tăng trưởng kinh tế của thế giới và nhiều nước Đông á sẽ thấp hơn năm trước, giá cả trên thị trường quốc tế biến động khó lường).

Tại hội nghị này, chúng ta đã thảo luận các chủ trương và giải pháp thực hiện Nghị quyết của Quốc hội. Các Phó Thủ tướng và một số Bộ trưởng đã nói rõ thêm một số vấn đề mà các địa phương đặt ra. Tôi xin nhấn mạnh một số vấn đề then chốt trong sự chỉ đạo, điều hành, đặc biệt là của chính quyền địa phương, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ năm 2001.

I. VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Để đưa tốc độ tăng trưởng GDP năm 2001 đạt và vượt 7,5 - 8%, phải tập trung giải quyết hai vấn đề then chốt là đầu tư phát triểnkhai thông thị trường.

1- Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển.

Kế hoạch năm 2001 dự kiến đầu tư phát triển dựa vào huy động tất cả các nguồn vốn phải đạt 150.000 tỷ đồng, tăng 20% so với năm trước và tương đương khoảng 30% GDP. Cùng với việc tăng khối lượng đầu tư, cần chú trọng nâng cao hiệu quả, trước hết là bố trí cơ cấu đầu tư theo hướng phát huy được lợi thế so sánh của từng địa phương, từng ngành và cả nước, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế. Quan điểm phát huy lợi thế, nâng cao hiệu quả không chỉ có ý nghĩa đối với đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh mà còn phải được thấu suốt cả trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng bằng vốn đầu tư của ngân sách nhà nước; ví dụ đầu tư trong nông nghiệp trước đây tập trung cho thuỷ lợi, chủ yếu cho cây lúa, nay phải quan tâm đầu tư nhiều hơn cho việc lai tạo giống (giống lúa, ngô, cây công nghiệp, cây ăn qủa, giống con, đặc biệt là tôm nuôi), cho việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, ứng dụng công nghệ mới, cho những khâu phục vụ chế biến và tiêu thụ nông sản, gắn sản xuất với thị trường... Nhà nước cũng phải quan tâm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin đi đôi với chính sách hỗ trợ sự phát triển công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm.

Đầu tư phát triển của doanh nghiệp và dân cư thuộc quyền chủ động của người đầu tư; Nhà nước có chính sách hỗ trợ về vốn, mặt bằng sản xuất, công nghệ, thị trường, đào tạo nguồn nhân lực, giảm nhẹ chi phí hành chính, chi phí các sản phẩm trung gian và các dịch vụ, dùng công cụ đòn bẩy để hướng vào những lĩnh vực và địa bàn cần khuyến khích nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Thực tiễn mấy năm qua cho thấy có nhiều lĩnh vực, như sản xuất giống tôm, giống cây ăn quả, kinh tế dân doanh đầu tư có hiệu quả cao; do đó, đầu tư của Nhà nước nên tập trung vào những khâu đích đáng, như nghiên cứu, lai tạo ra giống gốc, còn sản xuất giống đại trà thì khuyến khích đầu tư dân doanh. Tư tưởng chỉ đạo chung là những gì dân làm tốt thì khuyến khích và tạo điều kiện cho dân đầu tư.

Từng địa phương phải phân tích rõ lợi thế của mình để định hướng đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung thực hiện chính sách hỗ trợ cho những sản phẩm có khả năng phát triển nhanh. Ví dụ, các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long nghiên cứu chuyển những vùng trồng lúa kém hiệu quả, khó tiêu thụ sản phẩm sang sản xuất các sản phẩm khác có hiệu quả cao hơn. Thuỷ sản là ngành có thị trường tiêu thụ, có điều kiện tăng nhanh sản lượng và bảo đảm chất lượng xuất khẩu; vì vậy cần khẩn trương xây dựng và thực hiện chương trình đầu tư đồng bộ cả về giống, nuôi trồng, đánh bắt, chế biến nhằm tạo ra bước phát triển vượt trội, đưa thuỷ hải sản lên vị trí hàng đầu trong khu vực. Các ngành ở Trung ương phải đi sát chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn cho địa phương. Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng bảo đảm đủ vốn và đổi mới phương thức, thủ tục tín dụng cho các lĩnh vực đầu tư có hiệu quả được vay.

Dưới đây xin nêu cụ thể hơn về hướng phát huy từng nguồn vốn:

a) Sử dụng tốt nguồn vốn ngân sách và tín dụng nhà nước.

- Về vốn ngân sách: Tuy chỉ chiếm khoảng 1/5 tổng đầu tư trong nền kinh tế quốc dân, song vốn ngân sách là nguồn đầu tư chủ yếu cho các công trình kết cấu hạ tầng, các công trình công ích, mở đường và thúc đẩy các nguồn vốn đầu tư khác.

Năm 2000, vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã bố trí trong ngân sách Nhà nước chỉ sử dụng được khoảng 77%. Đó là một tình hình không bình thường, thuộc trách nhiệm chỉ đạo điều hành của Chính phủ và các cấp chính quyền. Nguyên nhân chủ yếu là do chỉ tiêu kế hoạch giao chậm, việc chuẩn bị dự án thiếu chủ động, những tháng đầu năm chỉ loay hoay lập dự toán, thiết kế nên triển khai thực hiện muộn. Thêm vào đó, một số quy định về thủ tục đầu tư xây dựng chưa phù hợp với thực tế, quy trình xét duyệt dự án, rút tiền, giải quyết đất đai còn phức tạp, việc giải phóng mặt bằng bị kéo dài.

Năm 2001, ngân sách dành cho đầu tư phát triển gần 33.000 tỷ đồng, bằng khoảng 6,6% GDP. Chính phủ giao cho các bộ hữu quan xem xét những quy định về thủ tục đầu tư xây dựng cần sửa đổi. Các vướng mắc về giải quyết đất cũng được đặt ra trong dự thảo sửa đổi Luật Đất đai và sửa đổi Nghị định 22 (phân cấp mạnh cho địa phương quyền giao đất, cho thuê đất, quyết định giá đền bù đất đai; tạo điều kiện cho dân di dời có điều kiện ở bằng hoặc tốt hơn; trên cơ sở đó, áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết cho việc giải phóng mặt bằng đáp ứng tiến độ thi công). Việc phân cấp mạnh hơn cho chính quyền địa phương trong lĩnh vực quản lý đất đã được Chính phủ bàn nhiều lần và rất nhất trí, song muốn thực hiện, phải sửa Luật Đất đai; do đó, các ngành hữu quan đang khẩn trương nghiên cứu để Chính phủ trình Quốc hội quyết định.

Chính phủ đã nâng tiêu chuẩn dự án, mở rộng phạm vi quyết định đầu tư cho Bộ, ngành và chính quyền địa phương. Cơ chế phân cấp đầu tư bằng vốn ngân sách, kể cả vốn của các chương trình mục tiêu quốc gia, giữa các cơ quan Trung ương và chính quyền địa phương được tiếp tục hoàn thiện theo hướng:

- Công trình đầu tư phục vụ chủ yếu cho địa phương nào thì giao cho địa phương đó quản lý; giao công trình (nhiệm vụ), đồng thời giao nguồn vốn và quyền quyết định đầu tư; cơ quan Trung ương chỉ hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra thực hiện. Theo tinh thần đó, phân cấp cho địa phương một số loại công trình đầu tư mà lâu nay Bộ, ngành Trung ương vẫn nắm, đặc biệt là các công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục - đào tạo, y tế, các cơ sở văn hoá, thể dục thể thao, cơ sở dịch vụ. Nội dung phân cấp bao gồm trọn vẹn cả đầu tư xây dựng cơ bản và quản lý sử dụng; do đó, ngoài việc giao vốn đầu tư cần tính toán cả nguồn kinh phí thường xuyên cho các địa phương. Các Bộ hữu quan phải xây dựng đề án phân cấp theo tinh thần nêu trên, báo cáo Chính phủ trước tháng 6 năm nay.

- Đối với các công trình đầu tư thuộc ngân sách địa phương : Hội đồng nhân dân bàn và quyết định phân bổ vốn cho các dự án đầu tư và công bố công khai cho dân biết để dân giám sát và tham gia thực hiện, nhất là trong việc giải phóng mặt bằng. Bãi bỏ các ràng buộc về thủ tục hành chính từ các cơ quan Trung ương liên quan đến sử dụng vốn, kể cả việc quy định cơ cấu vốn xây dựng.

- Đối với vốn của các chương trình quốc gia, trừ phần vốn cấp phát theo cơ chế uỷ quyền, còn lại giao cho chính quyền địa phương lồng ghép trên địa bàn và quyết định việc phân bổ cụ thể cho các công trình, các mục tiêu. Kế hoạch của địa phương phải dành tỷ lệ kinh phí cao nhất đưa về tận cơ sở, địa bàn nơi trực tiếp thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia và phải công bố công khai cho dân biết. Các cơ quan chủ quản chương trình có trách nhiệm theo dõi và yêu cầu địa phương bảo đảm thực hiện các mục tiêu của chương trình, nhưng không can thiệp trực tiếp vào việc phân phối vốn.

Trong đầu tư phát triển bằng vốn ngân sách, phải kiên quyết đẩy lùi và ngăn chặn lãng phí, tham nhũng, thực hiện nghiêm Quy chế đấu thầu, giám sát chặt chẽ quá trình thi công. Qua thảo luận, một số ý kiến muốn giảm bớt đấu thầu. Tuy còn thiếu kinh nghiệm nhưng chúng ta cần thấy rằng đấu thầu là một phương thức quản lý tiên tiến. Muốn làm tốt đấu thầu, cán bộ phụ trách công việc phải có phẩm chất tốt và có kinh nghiệm chuyên môn; tiêu chuẩn đấu thầu rõ ràng, công khai, quy trình đấu thầu được thực hiện nghiêm ngặt; đặc biệt phải hết sức chặt chẽ trong công tác giám sát thi công (hiện nay đang là khâu yếu nhất, là nguyên nhân chính làm giảm chất lượng công trình và vô hiệu hoá phương thức đấu thầu). Chính phủ đang nghiên cứu để trình ban hành Pháp lệnh đấu thầu; trước mắt có thể nâng mức vốn của công trình được giao thầu. Cơ quan chủ đầu tư công trình là người giao thầu, người xét chọn thầu và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình; bãi bỏ quy định xin phép cấp trên cho chỉ định thầu hoặc đưa lên cấp trên xét chọn thầu.

Thực hiện chế độ công khai thu chi ngân sách nhà nước, nhất là chi đầu tư, ở tất cả các cấp ngân sách, bảo đảm trên thực tế sự giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Tăng cường kỷ luật tài chính công, không cho phép thu, chi ngoài sổ sách, thực hiện nghiêm các chế độ, tiêu chuẩn chi tiêu, đặc biệt là sử dụng xe ô tô con, điện thoại..., tiết kiệm chi thường xuyên để có thể dành nhiều vốn hơn cho đầu tư phát triển.

- Về tín dụng đầu tư nhà nước: Năm nay dự kiến khoảng 25.000 tỷ đồng, trong đó 40% dựa vào vốn vay ưu đãi của nước ngoài, 60% huy động trong nước. Nguồn vốn này được tập trung cho các dự án chuyển tiếp để tăng năng lực sản xuất và phát huy hiệu quả. Tiếp tục dành một tỷ lệ thích đáng cho ngân sách tỉnh vay với lãi suất 0% để thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương, đường giao thông nông thôn; ngân sách địa phương tự thu xếp trả dần trong các năm sau. Những công trình, dự án nào bảo đảm được hiệu quả đầu tư và khả năng trả nợ được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành trái phiếu công trình để bổ sung thêm vốn đầu tư cần thiết. Những dự án có tính cấp thiết, đảm bảo lợi ích chung của nền kinh tế sẽ được áp dụng cơ chế ứng vốn trước để phục vụ kịp thời tiến độ thi công; khi thu hồi được vốn sẽ có trách nhiệm hoàn trả.

Quỹ Hỗ trợ phát triển cần thẩm định các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn này, hướng dẫn chủ đầu tư ký hợp đồng vay vốn; mở rộng việc áp dụng các hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng. Nhà nước khuyến khích và trợ giúp ban đầu cho các quỹ bảo lãnh tín dụng đầu tư gắn với các hiệp hội ngành nghề ở các địa phương, chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

b) Tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, xây dựng quan hệ sản xuất gắn với phát triển lực lượng sản xuất.

- Đối với doanh nghiệp nhà nước: Tuy giảm số lượng so với trước nhưng doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ những vị trí then chốt của nền kinh tế, duy trì tỷ trọng trong GDP, cải thiện được hiệu quả kinh doanh, tăng mức đóng góp cho Ngân sách nhà nước. Thực tế đó khẳng định các chủ trương sắp xếp lại, đổi mới khu vực doanh nghiệp nhà nước là đúng, cần tiếp tục thực hiện với quyết tâm cao hơn. Năm nay, phải giải quyết những vướng mắc còn tồn tại để đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả cổ phần hoá; tích cực thực hiện chủ trương giao quản lý, khoán kinh doanh, bán, cho thuê doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa không cần duy trì hình thức sở hữu và quản lý như cũ; sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhà nước thu hồi được; có biện pháp cụ thể giải quyết các doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước không cổ phần hoá, trước hết là doanh nghiệp kinh doanh, sang hoạt động theo loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trong Luật Doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về đầu tư phát triển và tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, phân định rõ trách nhiệm của người sử dụng vốn tại doanh nghiệp và chức năng chủ sở hữu vốn nhà nước.

- Đối với hợp tác xã: Năm 2001 cần tiến hành tổng kết quá trình thực hiện Luật Hợp tác xã, đề ra biện pháp thiết thực khuyến khích, hỗ trợ việc chuyển đổi và phát triển hợp tác xã. Giải quyết các vướng mắc, đặc biệt là trong việc xử lý nợ tồn đọng từ khi chưa có Luật Hợp tác xã, để hoàn thành dứt điểm việc chuyển đổi hợp tác xã cũ sang hoạt động theo Luật Hợp tác xã. Tuy chưa nhiều, nhưng đã có những mô hình hợp tác xã kiểu mới hỗ trợ tích cực và có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế hộ nông dân và kinh tế trang trại, cần tổng kết và nhân rộng. Hình thức hợp tác xã cũng thích hợp cho việc thực hiện chính sách phát triển ngành nghề nông thôn theo Quyết định số 132 ngày 24 tháng 11 năm 2000 của Chính phủ. Qua khảo sát thực tế, các cơ sở ngành nghề nông thôn hoan nghênh quyết định này và đang mong đợi sự hướng dẫn, giúp đỡ của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương để đưa quyết định này vào cuộc sống.

- Đối với kinh tế dân doanh: Kết quả đáng phấn khởi của việc thi hành Luật Doanh nghiệp trong năm 2000 tuy mới là bước đầu nhưng đã tỏ rõ tác dụng đột phá về thể chế kinh tế, chuyển từ cơ chế "dân chỉ được làm những gì cơ quan nhà nước cho phép" sang thực hiện nguyên tắc "dân được làm tất cả những gì luật pháp không cấm". Quyền tự do kinh doanh của công dân theo pháp luật đã khơi dậy và bước đầu phát huy tiềm năng to lớn của kinh tế dân doanh. Chính phủ hoan nghênh các ủy ban nhân dân địa phương đã tích cực chỉ đạo thực hiện Luật này, đặc biệt là ở các thành phố lớn, trong đó thành phố Hồ Chí Minh mới đây đã mở đầu việc thực hiện đăng ký kinh doanh qua mạng máy tính.

Để thi hành đầy đủ Luật Doanh nghiệp, phải tiếp tục soát xét, loại bỏ những giấy phép không cần thiết, quy định cụ thể và công khai những điều kiện phải tuân thủ trong hoạt động kinh doanh và kiểm tra việc thực hiện. Các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương, đặc biệt là các Bộ, ngành, phải nêu cao ý thức chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, khắc phục xu hướng trì kéo những hình thức xin - cho không cần thiết. Chính phủ giao cho Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp soát xét nội dung các dự thảo nghị định quy định ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh. Quy chế doanh nghiệp đăng ký kinh doanh không cần xin phép và cam kết thực hiện những điều kiện do Nhà nước quy định là phương thức đề cao trách nhiệm của doanh nghiệp đối với hoạt động của mình trước pháp luật. Việc áp dụng quy chế này cần được mở rộng trong một số lĩnh vực khác, như doanh nghiệp tự kê khai và nộp thuế, tự kê khai và làm thủ tục hải quan...; cơ quan nhà nước không làm thay doanh nghiệp mà chủ yếu là thực hiện chức năng kiểm tra, thanh tra và chế tài khi có vi phạm quy định của Nhà nước.

Công tác thanh tra, kiểm tra là cần thiết để bảo đảm sản xuất kinh doanh đúng pháp luật, song phải chấm dứt lối thanh tra, kiểm tra tuỳ tiện, chồng chéo, không đúng thẩm quyền, trái pháp luật, nội dung không rõ ràng và không có kết luận. Chính phủ đã giao cho Văn phòng Chính phủ cùng Thanh tra nhà nước và các Bộ, ngành hữu quan xây dựng quy chế thanh tra, kiểm tra chuyên ngành, khẩn trương nghiên cứu sửa đổi bổ sung Nghị định về thanh tra, kiểm tra phù hợp với tinh thần Luật Doanh nghiệp, để doanh nghiệp yên tâm làm ăn.

Bên cạnh việc giải toả ách tắc cho doanh nghiệp trong đăng ký kinh doanh, cần tiếp tục tháo gỡ những khó khăn, trở ngại trong đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp, như về đất đai, về thông tin, tiếp thị, tìm kiếm thị trường, về vốn, về ứng dụng công nghệ mới, đào tạo, nâng cao tay nghề, về thuế, thủ tục hải quan... tạo môi trường thuận lợi hơn nữa cho hoạt động của mọi thành phần kinh tế.

- Đầu tư trực tiếp của nước ngoài đang có dấu hiệu khôi phục, trên thực tế đã trở thành một bộ phận hợp thành của nền kinh tế Việt Nam, song cần tăng cường sự gắn bó với kinh tế trong nước thành một cơ cấu hiệu quả và bền vững. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao chất lượng quy hoạch ngành và địa bàn, thường xuyên hiệu chỉnh cho phù hợp với diễn biến của tình hình, ngăn ngừa đầu tư chồng chéo, triệt tiêu lẫn nhau; đa phương hoá đối tác, đa dạng hoá hình thức thu hút đầu tư, hướng mạnh vào xuất khẩu.

Để tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, còn phải quan tâm cải thiện các yếu tố chi phí đầu tư thuộc phạm vi quản lý nhà nước (thủ tục và chi phí hành chính, giá điện, giá nước, giao thông, viễn thông, nguyên liệu, lao động, thuế...). Từng ngành, từng tỉnh, thành phố phải xây dựng và công bố quy hoạch, đồng thời có danh mục các dự án đầu tư đáp ứng được sự quan tâm của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.

Thực tiễn cho thấy, trong điều kiện chung về cơ chế quản lý vĩ mô, những địa phương nhận thức đúng vai trò của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đi sát, giúp đỡ cụ thể cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn thì kinh tế ở nơi đó tăng trưởng nhanh và có hiệu quả. Ví dụ năm 2000, hai tỉnh Đồng Nai và Bình Dương đạt tốc độ tăng trưởng GDP lần lượt là 7,5% và 7,3% (toàn quốc là 6,7%), nâng tỷ trọng công nghiệp trong GDP lên 54% và 58% (toàn quốc là 35,2%), kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn bình quân đầu người đạt 686 và 603 USD (toàn quốc 180 USD). Điều đó chứng minh tác động trực tiếp của chính quyền địa phương đối với sự phát triển kinh tế trên từng địa bàn, là bài học thiết thực cho công tác chỉ đạo, điều hành trong thời gian tới.

2- Khai thông, mở rộng thị trường.

Vấn đề này đang nổi lên thành một yếu tố quyết định đối với sự phát triển sản xuất. Cơ chế cũ tách rời sản xuất với thị trường, tạo ra thói quen làm ra sản phẩm rồi mới tìm nơi bán. Ngày nay mọi hoạt động đầu tư, kinh doanh phải xuất phát từ nhu cầu thị trường, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng vừa phát huy được lợi thế so sánh, vừa năng động thích ứng với những đòi hỏi của thị trường luôn biến động về cung - cầu, thay đổi về thị hiếu, từ chủng loại, chất lượng đến kiểu dáng sản phẩm. Công tác quản lý nhà nước cũng phải khắc phục sự chia cắt sản xuất với thị trường; ví dụ: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn không chỉ quan tâm đến các yếu tố sản xuất như nước, phân, cần, giống, công nghệ mới mà còn phải chủ trì thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các khâu chế biến, tiêu thụ nông sản, kể cả xuất khẩu. Năm nay phải chuyển mạnh theo hướng đó, điều chỉnh hợp lý chức năng và sự phối hợp giữa các Bộ quản lý ngành sản xuất và Bộ Thương mại. Các địa phương cũng phải tập trung chỉ đạo phát triển những mặt hàng có thị trường tiêu thụ, không chỉ quan tâm đầu tư, hỗ trợ sản xuất mà còn phải coi trọng hướng dẫn dân tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả. Tránh việc lập quy hoạch vùng cây con một cách quan liêu, hô hào dân nuôi trồng, sau đó bỏ mặc dân khi tiêu thụ khó khăn. Những sản phẩm không có thị trường thì phải giúp dân chuyển đổi cơ cấu sản xuất.

Gắn với sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất, phải nâng cao sức cạnh tranh cả về chất lượng và giá cả thì hàng hoá và dịch vụ mới có thể tiêu thụ được trên thị trường trong nước và ngoài nước, bảo đảm thành công cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Từng doanh nghiệp, từng ngành, từng địa phương và cả nền kinh tế phải phấn đấu quyết liệt theo yêu cầu đó để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước, đồng thời ra sức đẩy mạnh xuất khẩu. Từ kinh nghiệm thành công của một số doanh nghiệp và sản phẩm đã giành được chỗ đứng trên thị trường trong nước và thế giới, từng ngành, từng địa phương phải có giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của các mặt hàng và dịch vụ khác, trước hết là những sản phẩm quan trọng, theo kịp tiến trình giảm dần hàng rào bảo hộ (kể cả hàng rào thuế quan và phi quan thuế).

Để phát triển thị trường trong nước, cần tiếp tục các biện pháp nâng cao sức mua, kích thích nhu cầu đầu tư và tiêu dùng, mở rộng hoạt động thương mại, giảm chi phí lưu thông, xoá bỏ các phí tiêu cực (như việc thu phí qua nhiều chặng kiểm soát và các lệ phí bất hợp lý khác). Chính phủ sẽ xem xét việc xoá bỏ thuế buôn chuyến trên cơ sở cân nhắc lợi, hại thực tế. Trong hơn 14 tỷ USD hàng xuất khẩu năm 2000, nhiều mặt hàng công nghiệp chỉ là gia công vì hầu hết nguyên vật liệu, phụ kiện đều nhập khẩu; đây là một nguồn "cầu" quan trọng để kích thích đầu tư, sản xuất trong nước, vừa mở rộng thị trường nội địa, vừa nâng cao hiệu quả xuất khẩu.

Xây dựng quy chế hỗ trợ về tài chính và cơ chế phối hợp giữa cơ quan nhà nước với các hiệp hội và các doanh nghiệp trong công tác thông tin tiếp thị, xúc tiến thương mại, mở thị trường mới. Mở rộng mạng kết nối Internet, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nối mạng thông tin quốc gia và quốc tế theo giá cả cạnh tranh với các nước trong khu vực; tiếp cận, triển khai thực hiện thương mại điện tử.

Chính phủ đã thông qua Chiến lược xuất khẩu đến năm 2010 gắn với chính sách khuyến khích xuất khẩu cả về thuế, tín dụng, ngoại tệ và đang khẩn trương xây dựng để ban hành quy chế xuất nhập khẩu ổn định trong thời gian 2001 - 2005 theo hướng mở rộng hơn nữa quyền kinh doanh xuất - nhập khẩu cho mọi đơn vị kinh tế trong và ngoài nước, giảm số mặt hàng cấm, số mặt hàng phải xin phép, chuyển mạnh sang cơ chế quản lý bằng các biện pháp kinh tế theo thông lệ quốc tế thay cho biện pháp hành chính.

Bộ Thương mại chủ trì, cùng các Bộ, ngành hữu quan phổ biến rộng rãi các hiệp định thương mại đã ký với bên ngoài, lộ trình thực hiện các cam kết đa phương, song phương, đặc biệt là khẩn trương chuẩn bị điều kiện triển khai thực hiện Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ. Điều quan trọng là hướng dẫn các doanh nghiệp cần phải làm gì, nhà nước hỗ trợ đến đâu, phát huy tính tích cực, chủ động của các doanh nghiệp và địa phương để xâm nhập và mở rộng thị trường ngoài nước và cạnh tranh được với hàng nước ngoài ngay trên sân nhà.

Qua thảo luận, nổi lên những lo lắng về tiêu thụ nông sản. Theo nhiều dự báo, giá một số nông sản chủ yếu của ta năm nay có khả năng giảm do cung vượt cầu trên thị trường thế giới. Một số biện pháp cấp bách cần thực hiện để hạn chế thua thiệt cho người sản xuất và xuất khẩu:

- Trước hết, xuất phát từ nhu cầu thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm để điều chỉnh cơ cấu sản xuất, bố trí lại quy hoạch sử dụng đất đai, mặt nước.

Bộ Thương mại cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nâng cao chất lượng thông tin và dự báo về diễn biến thị trường để nông dân, các tổ chức sản xuất và xuất khẩu tăng khả năng chủ động trong kế hoạch sản xuất kinh doanh.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thuỷ sản, Tổng cục Địa chính làm việc với từng tỉnh, trước hết là những tỉnh có điều kiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản; đến giữa năm nay có đề án để kịp điều chỉnh sản xuất và xây dựng kết cấu hạ tầng phù hợp.

Bộ Thuỷ sản cùng các Bộ hữu quan xúc tiến ngay một số chính sách cụ thể hỗ trợ nông dân, ngư dân phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản : xây dựng cơ sở hạ tầng; bảo vệ môi trường; sản xuất giống, thức ăn; chuyển giao công nghệ; cho vay vốn; phát triển công nghiệp chế biến, bảo đảm đủ chất lượng xuất khẩu; khuyến khích kinh tế hợp tác và vai trò của các hiệp hội.

- Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia tiêu thụ nông sản, lâm sản, liên kết chặt chẽ với các đơn vị sản xuất. Nhanh chóng củng cố các Tổng công ty lớn để tăng khả năng tiêu thụ, dự trữ sản phẩm và ổn định giá cả hợp lý cho nông dân, tăng sức cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu. Nhân rộng các mô hình hợp tác xã và doanh nghiệp chế biến làm đầu mối tiêu thụ nông sản cho xã viên. Phát huy vai trò của các hiệp hội trong việc thống nhất khung giá, chuẩn hoá chất lượng, phối hợp tiếp thị nhằm hỗ trợ các hội viên cạnh tranh xuất khẩu. Xây dựng quỹ tự quản của hiệp hội để bảo hiểm nông sản xuất khẩu bằng cách trích từ thu nhập khi giá cao để bù đắp cho hội viên khi giá rớt; Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho việc xây dựng các quỹ bảo hiểm này, cùng với việc phát huy tác dụng thiết thực của các quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu.

- Chính phủ có một số quy định mới trong cơ chế xuất khẩu nông sản:

+ Bỏ việc quy định đầu mối xuất khẩu và việc cấp hạn ngạch xuất khẩu gạo. Khi nông sản khó tiêu thụ, giá xuống thấp, Nhà nước bù lãi suất và giao nhiệm vụ cho doanh nghiệp tạm trữ; tạo điều kiện cho nông dân tạm trữ sản phẩm.

+ Sử dụng quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp áp dụng phương thức bán chịu (trả chậm). Trước mắt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với Bộ Thương mại đề xuất phương án bán gạo trả chậm cho một số nước để sớm triển khai thực hiện.

II- VỀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ,GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO, VĂN HÓA, XÃ HỘI

Lĩnh vực hoạt động văn hoá, xã hội của nước ta có nhiều điểm sáng, song cũng còn nhiều vấn đề bức xúc. Cuộc sống đòi hỏi các cấp chính quyền thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước, bớt can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh, dành nhiều điều kiện, thời gian, tâm sức hơn cho các hoạt động văn hoá, xã hội là những lĩnh vực đích thực Nhà nước phải chăm lo.

Các chính sách, biện pháp phát triển văn hoá, xã hội đã nêu trong Báo cáo trình bày tại Hội nghị, đặc biệt là về xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phòng chống các tệ nạn xã hội, phòng chống tai nạn giao thông, được các đại biểu tán thành. Tôi xin lưu ý thêm một số vấn đề mà Hội nghị quan tâm.

1. Khoa học - công nghệ cần tập trung tạo bước bứt phá về một số lĩnh vực mũi nhọn. Triển khai thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Chính phủ về phát triển công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ phần mềm, đi đôi với thúc đẩy quá trình tin học hoá các hoạt động kinh tế - xã hội. Phát triển mạnh công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá, tập trung vào những lĩnh vực trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, như giống cây trồng, vật nuôi, công nghệ chế biến, chế tạo cơ khí...

Chính phủ áp dụng chính sách đặc biệt đối với những lĩnh vực công nghệ mũi nhọn nhằm huy động và kết hợp có hiệu quả đầu tư của Nhà nước với năng lực trí tuệ của đội ngũ trí thức nước ta, với nguồn lực của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư kinh doanh công nghệ cao; đặc biệt chú ý phát huy tiềm năng của người Việt ở nước ngoài.

Trong năm nay, các bộ hữu quan phải hoàn thành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Khoa học - Công nghệ, xây dựng đề án đổi mới quản lý hoạt động khoa học - công nghệ, tiếp tục triển khai các dự án bảo vệ môi trường, các chương trình nghiên cứu.

2. Giáo dục, đào tạo có bước phát triển khá về quy mô, song những bất cập và các biểu hiện tiêu cực trên lĩnh vực này đang là mối lo của các gia đình, của dư luận xã hội. Vấn đề không chỉ là sửa đổi một cách chắp vá bị động, mà phải tổng kết quá trình cải cách giáo dục nhiều năm qua, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cơ bản cho một nền giáo dục đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ mới. Đây không chỉ là trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo, mà phải huy động được trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, trong đó vai trò của các cấp chính quyền địa phương là hết sức quan trọng.

Trước mắt, Chính phủ chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ có liên quan hoàn thành việc xây dựng Chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo đến năm 2010; hướng dẫn thực hiện Luật Giáo dục; triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dậy và học ở các cấp học, bậc học, cải tiến chế độ thi cử; hoàn thành việc quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng; ưu tiên đầu tư và ổn định hoạt động của hai Đại học quốc gia.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các địa phương tăng cường phân cấp quản lý giáo dục - đào tạo; xây dựng nền nếp thanh tra, kiểm tra; tiếp tục phát hiện và xử lý nghiêm việc sử dụng bằng giả, man trá trong thi cử. Đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hoá giáo dục. Các địa phương dành ưu tiên vốn, kết hợp với huy động sức dân để kiên cố hoá, ngói hoá trường học, sớm thanh toán tình trạng học 3 ca, hoặc hai lớp cùng học chung một phòng "quay lưng lại nhau".

Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu sửa đổi hình thức tuyển dụng công chức cho phù hợp với đặc thù của ngành giáo dục; cùng các Bộ hữu quan xây dựng chính sách thoả đáng thu hút giáo viên, bác sĩ, cán bộ khoa học lên vùng cao, vùng xa.

Trong khi chưa có đủ điều kiện thu hẹp nhanh khoảng cách giầu nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, chúng ta có thể làm trước việc xoá dần bất công xã hội trong hưởng thụ giáo dục, y tế, văn hoá bằng biện pháp tập trung nguồn lực của nhà nước cho các lĩnh vực này ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, huy động tốt hơn sự đóng góp hợp lý của nhân dân ở các vùng khác.

3. Về lao động, đi đôi với việc thực hiện các chủ trương, biện pháp đã nêu trong Báo cáo trình bày tại Hội nghị về vấn đề giải quyết việc làm, cần đẩy mạnh đào tạo nghề, hoàn thành quy hoạch mạng lưới đào tạo, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu lao động. Để đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động cả về số lượng và chất lượng, cần mở rộng dịch vụ xuất khẩu lao động và tăng cường quản lý nhà nước. Năm 2001 đưa được 50.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài.

4. Về phòng chống tệ nạn ma tuý, Chính phủ sẽ sớm hướng dẫn thi hành Luật về lĩnh vực này vừa được Quốc hội thông qua. Chính quyền và tổ chức Đảng, đoàn thể ở phường, xã phải coi phòng chống ma tuý là một nhiệm vụ trọng tâm, gắn với phong trào xây dựng gia đình, địa bàn dân cư văn hoá vì hơn ai hết, cơ sở là người nắm rõ nhất diễn biến của tệ nạn này. Các địa phương cần tập trung lực lượng và kinh phí cho các xã, phường; đồng thời quan tâm bảo đảm sự trong sạch của bộ máy phòng chống ma tuý, không thể để trong đội ngũ phòng chống ma tuý lại có người tiếp tay cho bọn gieo rắc tệ nạn này.

III- VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH

Hội nghị biểu thị sự nhất trí cao đối với Chương trình cải cách hành chính của Chính phủ đã trình bày. Để thực hiện có hiệu quả, phải khắc phục tình trạng không ít ngành, địa phương coi cải cách hành chính dường như là công việc riêng của Chính phủ, không phải trách nhiệm trực tiếp của mình; thụ động, chờ đợi, làm cầm chừng, nhất là đối với những vấn đề nhạy cảm, trực tiếp đụng chạm đến lợi ích cục bộ của ngành mình, địa phương mình.

Tôi xin nói rõ thêm về một số việc cần làm trong năm 2001 :

1- Về xây dựng thể chế: Thực hiện tốt Chương trình xây dựng Luật và Pháp lệnh năm 2001 đã được Quốc hội thông qua; ưu tiên xây dựng, sửa đổi, bổ sung các thể chế tạo khung pháp lý thuận lợi cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, đồng thời tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước.

Trong thời gian tới, đi đôi với việc tiếp tục hoàn chỉnh các văn bản triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp, Chính phủ sẽ xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định đang còn vướng mắc trong một số lĩnh vực như thủ tục giao đất, tín dụng, đầu tư, thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp...; song thực tế cho thấy, cho dù chủ trương, chính sách có đổi mới, nhưng cũng không thể đi vào cuộc sống nếu các địa phương, các ngành không thật sự quan tâm đi sát, giúp đỡ doanh nghiệp thực hiện đúng pháp luật.

Xây dựng quy chế phân cấp theo hướng giao mạnh cho chính quyền địa phương và cơ sở giải quyết các vấn đề dân sinh, dịch vụ phúc lợi xã hội, các hoạt động kinh tế cụ thể. Chính phủ phân cấp mạnh cho tỉnh, thành phố; tỉnh, thành phố tăng cường phân cấp cho cấp dưới của mình. Phân cấp phải đồng bộ cả quyền hạn trách nhiệm, phương tiện kinh phí và tổ chức cán bộ; phải đi kèm với quy chế xác định nguyên tắc ra quyết định, không thả nổi, tuỳ tiện.

Đi đôi với phân cấp giải quyết công việc cụ thể, phải tăng cường tính tập trung thống nhất trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Hơn mười năm qua, chúng ta đã phải xây dựng hầu như từ đầu hệ thống pháp luật kinh tế, cho nên các đạo luật và nghị định chưa thể đầy đủ, mà cần có các thông tư chi tiết hoá, cụ thể hoá thì mới thực hiện được. Bây giờ tình hình đã khác; những đạo luật cơ bản đã được xây dựng, nhiều lĩnh vực quan trọng khác cũng đã có nghị định. Tuy còn phải xây dựng thêm một số văn bản còn thiếu, song phần lớn công tác xây dựng thể chế là sửa đổi, bổ sung những văn bản hiện hành và có điều kiện đưa tất cả những quy định có nội dung quy phạm pháp luật vào các luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Giảm mạnh, tiến tới chấm dứt việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, ngành, hoặc của chính quyền địa phương. Từ nay, Chính phủ sẽ không xem xét các dự thảo luật, pháp lệnh, nghị định còn thiếu các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn đi kèm, nhất là đối với những văn bản sửa đổi, bổ sung.

2- Về tổ chức bộ máy và quan hệ làm việc trong hệ thống hành chính : Từng Bộ, ngành và ủy ban nhân dân địa phương phải chủ động trong việc điều chỉnh nhiệm vụ, sắp xếp tổ chức theo tinh thần đề án thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 đã được thông qua; đồng thời tổng kết thực tiễn, góp ý kiến về những vấn đề cần đặt ra trong việc sửa Hiến pháp và Luật Tổ chức các cơ quan nhà nước, trong đó có hệ thống hành chính.

Trong quan hệ làm việc, nổi lên vấn đề quy chế phối hợp, liên kết giữa chính quyền các tỉnh, thành phố trong một vùng, gắn với quan hệ chỉ đạo của Chính phủ để nâng cao hiệu quả phát triển, đặc biệt là về quy hoạch, về xây dựng kết cấu hạ tầng, về cơ cấu đầu tư, về đào tạo cán bộ ... Đi đôi với việc tiếp tục thực hiện việc phân công thành viên Chính phủ theo dõi các địa phương, Chính phủ sẽ cùng với các tỉnh, thành phố thuộc các địa bàn kinh tế trọng điểm hình thành bước đầu quy chế này để rút kinh nghiệm cho các vùng khác. Năm nay, Chính phủ sẽ có cuộc họp giữa năm với lãnh đạo chính quyền tỉnh, thành phố để đánh giá tình hình triển khai thực hiện nhiệm vụ năm 2001, điều chỉnh sự phân bổ vốn đầu tư của nhà nước.

Văn phòng Chính phủ kiểm điểm việc thực hiện quy chế giải quyết, trả lời các yêu cầu, kiến nghị của chính quyền địa phương, quy chế làm việc trực tiếp khi cần thiết giữa các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của chính quyền địa phương với Thủ tướng, các Phó Thủ tướng; trên cơ sở đó, kiến nghị biện pháp chấn chỉnh, cải tiến để bảo đảm hiệu quả công việc. Thủ trưởng các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cũng phải xem xét, cải tiến quan hệ làm việc với chính quyền địa phương, khắc phục những rào cản trong cơ quan gây trở ngại cho công việc.

3- Gắn cải cách hành chính với phát huy dân chủ, làm cho bộ máy hành chính gần dân, gần doanh nghiệp : Cùng với việc công khai hóa các văn bản pháp quy, các chủ trương, chính sách, các thủ tục hành chính có quan hệ với dân, phải mở rộng và đổi mới hình thức bảo đảm cho dân tham gia ý kiến ngay từ khi chuẩn bị đến triển khai thực hiện các dự án quan trọng, các quyết định có quan hệ tới lợi ích của số đông. Rút kinh nghiệm năm vừa qua để chỉ đạo thực hiện tốt hơn quy chế dân chủ ở cơ sở, thiết thực cải thiện mối quan hệ của chính quyền với dân và với doanh nghiệp. Cấp trên phải xem xét, chỉ đạo cụ thể những nơi chưa thực hiện tốt quy chế này do có vướng mắc giữa chính quyền và quần chúng.

Chính phủ duy trì sự tiếp xúc thường kỳ với đại diện cộng đồng doanh nghiệp. Bộ trưởng, Chủ tịch tỉnh, thành phố cần định kỳ gặp gỡ, đối thoại với doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), trả lời phỏng vấn trực tiếp trên phương tiện thông tin đại chúng; đi sát giúp đỡ giải quyết các vướng mắc cụ thể của doanh nghiệp.

4- Tăng cường kỷ luật hành chính: Cải cách hành chính phải coi trọng đề cao kỷ luật hành chính, bảo đảm hiệu lực của bộ máy. Tăng cường công tác giáo dục, kiểm tra, thanh tra công vụ, xử lý nghiêm những trường hợp cấp dưới làm sai pháp luật và các quy định của Chính phủ, không thi hành lệnh trên, vi phạm kỷ luật hành chính. Chính phủ, các Bộ, ngành và chính quyền địa phương dùng hình thức phái viên hoặc tổ công tác đặc biệt để trực tiếp xem xét, xử lý và công bố một số vụ, việc sai phạm của cấp dưới thuộc phạm vi trách nhiệm của mình, đặc biệt là những vụ nổi cộm, xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của dân đang gây nhức nhối trong dư luận xã hội.

5- Giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân : Khiếu kiện của dân hiện nay còn nhiều vụ tồn đọng kéo dài, diễn biến phức tạp, gay gắt; nếu không tập trung chỉ đạo giải quyết tốt, sẽ tích tụ, bột phát thành những "điểm nóng" làm mất ổn định chính trị, xã hội và không loại trừ những trường hợp xẩy ra manh động, gây rối. Thực tế cho thấy chúng ta vừa chưa thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của dân vừa còn lúng túng và thiếu chuẩn bị ứng phó với tình hình đột xuất.

Hội nghị đã nghe báo cáo kết quả làm việc của các đoàn công tác được thành lập theo chủ trương của Thường vụ Bộ Chính trị và Thủ tướng Chính phủ về phối hợp cùng chính quyền địa phương giải quyết một số vụ khiếu kiện của dân. Tác dụng chủ yếu của việc làm này là nhằm đánh giá đúng tình hình, rút ra những vấn đề cần giải quyết về thể chế, chính sách, những bài học kinh nghiệm cần khẳng định để năm 2001 tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết khiếu kiện của dân, đặc biệt là những vụ tồn đọng kéo dài. Trước mắt, trách nhiệm và thẩm quyền trực tiếp giải quyết khiếu kiện của dân chủ yếu vẫn thuộc chính quyền địa phương và cơ sở. Bên cạnh việc giải quyết những vụ, việc đã xẩy ra, cần quan tâm tới biện pháp cơ bản và lâu dài là xây dựng bộ máy trong sạch, vững mạnh; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện thể chế chính sách, pháp luật làm căn cứ cho việc giải quyết khiếu kiện của dân; nâng cao vị trí, phạm vi xét xử của toà án hành chính.

Năm 2000 đã kết thúc với những thắng lợi tương đối toàn diện trong việc thực hiện nhiệm vụ mà Quốc hội đề ra. Mặc dù phía trước còn nhiều khó khăn, song khí thế làm ăn, lao động sản xuất đang có đà thuận lợi hơn mấy năm trước.

Hội nghị này giúp chúng ta nâng cao quyết tâm và thống nhất hành động để triển khai thực hiện các chủ trương, giải pháp đã đề ra, phấn đấu giành được thắng lợi trong năm 2001 lớn hơn năm trước. Trên cơ sở đó, các Bộ, ngành và các địa phương cần phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, khẩn trương triển khai công việc thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của mình, không chờ đợi, ỷ lại.

Hội nghị kết thúc đúng vào ngày kỷ niệm Đảng ta tròn 71 tuổi. Hôm nay cũng là ngày công bố dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình Đại hội IX, với nội dung phát triển đường lối đổi mới trên các mặt của đời sống xã hội và trong công tác xây dựng Đảng, tiếp thêm ý chí và ánh sáng cho chúng ta thực hiện nhiệm vụ.

Chính phủ mong mỏi và tin tưởng rằng tất cả các ngành, các cấp đều giành được tiến bộ mới, thắng lợi mới trong năm 2001.

 

Đoàn Mạnh Giao

(Đã ký)

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 12/2001/TB-VPCP

Loại văn bảnThông báo
Số hiệu12/2001/TB-VPCP
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành21/02/2001
Ngày hiệu lực21/02/2001
Ngày công báo...
Số công báo
Lĩnh vựcBộ máy hành chính
Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
Cập nhật17 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Download Văn bản pháp luật 12/2001/TB-VPCP

Lược đồ Thông báo 12/2001/TB-VPCP kết quả hội nghị biện pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2001 kiến chỉ đạo Thủ tướng Phan Văn Khải


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản sửa đổi, bổ sung

        Văn bản bị đính chính

          Văn bản được hướng dẫn

            Văn bản đính chính

              Văn bản bị thay thế

                Văn bản hiện thời

                Thông báo 12/2001/TB-VPCP kết quả hội nghị biện pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2001 kiến chỉ đạo Thủ tướng Phan Văn Khải
                Loại văn bảnThông báo
                Số hiệu12/2001/TB-VPCP
                Cơ quan ban hànhVăn phòng Chính phủ
                Người kýĐoàn Mạnh Giao
                Ngày ban hành21/02/2001
                Ngày hiệu lực21/02/2001
                Ngày công báo...
                Số công báo
                Lĩnh vựcBộ máy hành chính
                Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
                Cập nhật17 năm trước

                Văn bản thay thế

                  Văn bản được dẫn chiếu

                    Văn bản hướng dẫn

                      Văn bản được hợp nhất

                        Văn bản được căn cứ

                          Văn bản hợp nhất

                            Văn bản gốc Thông báo 12/2001/TB-VPCP kết quả hội nghị biện pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2001 kiến chỉ đạo Thủ tướng Phan Văn Khải

                            Lịch sử hiệu lực Thông báo 12/2001/TB-VPCP kết quả hội nghị biện pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2001 kiến chỉ đạo Thủ tướng Phan Văn Khải

                            • 21/02/2001

                              Văn bản được ban hành

                              Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                            • 21/02/2001

                              Văn bản có hiệu lực

                              Trạng thái: Có hiệu lực