Thông tư 525-HĐTTKTNN

Thông tư 525-HĐTTKTNN-1975 hướng dẫn thực hiện bản Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế kèm theo Nghị định 54-CP-1975 do Hội đồng trọng tài kinh tế nhà nước ban hành

Thông tư 525-HĐTTKTNN hướng dẫn Nghị định 54-CP bản Điều lệ chế độ hợp đồng kinh tế đã được thay thế bởi Thông tư 109/TT-PC ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh hướng dẫn Quyết định 18-HĐBT và được áp dụng kể từ ngày 24/05/1990.

Nội dung toàn văn Thông tư 525-HĐTTKTNN hướng dẫn Nghị định 54-CP bản Điều lệ chế độ hợp đồng kinh tế


HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI KINH TẾ NHÀ NƯỚC
********

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 525-HĐTTKTNN

Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 1975

 

THÔNG TƯ

CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI KINH TẾ NHÀ NƯỚC SỐ 525-HĐTTKTNN NGÀY 23 THÁNG 6 NĂM 1975 HƯỚNG DẪN ĐIỀU LỆ VỀ CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG KINH TẾ BAN HÀNH KÈM THEO NGHỊ ĐỊNH SỐ 54 /CP NGÀY 10 THÁNG 3 NĂM 1975

I- MỤC ĐÍCH BAN HÀNH CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG KINH TẾ

Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế được thực hiện ở nước ta từ năm 1960. Từ đó đến nay, công tác này đã dần dần đi vào nề nếp và không ngừng cải tiến. Nó đã góp phần vào việc thúc đẩy hoàn thành kế hoạch Nhà nước và cải tiến công tác kế hoạch hoá, cải tiến quản lý kinh tế. Đến nay cơ cấu nền kinh tế quốc dân đã có những chuyển biến mới, công tác quản lý kinh tế, công tác kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân cần được cải tiến nên cần phải có bản điều lệ chính thức để thay thế bản điều lệ tạm thời.

Nghị quyết lần thứ 20 của Trung ương Đảng đã vạch rõ phương hướng cơ bản của việc cải tiến quản lý kinh tế là: "Xoá bỏ lối quản lý hành chính cung cấp, thực hiện quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, khắc phục cách tổ chức quản lý thủ công phân tán, theo lối sản xuất nhỏ, xây dựng cách tổ chức quản lý của nền công nghiệp lớn nhằm thúc đẩy quá trình đưa nền kinh tế quốc dân từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa".

Để nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết lần thứ 20 của Trung ương Đảng và để khắc phục các nhược điểm thiếu sót của bản điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế ngày 10-3-1975, Hội đồng Chính phủ đã ký Nghị định số 54/CP ban hành bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế mới. Bản điều lệ này đã đúc kết kinh nghệm trong 15 năm công tác hợp đồng kinh tế, hệ thống lại các quy định đã có, bãi bỏ những cái cũ không còn thích hợp, bổ sung thêm nhiều điểm mới và đây là bản điều lệ chính thức.

Bản điều lệ đã xác định vị trí quan trọng của hợp đồng kinh tế quốc dân, trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch, củng cố chế độ hạch toán kinh tế và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý kinh tế, coi đây là một công cụ pháp lý trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân, mà việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế là một kỷ luật. Bắt buộc các tổ chức quốc doanh, các tổ chức công tư hợp doanh, các cơ quan quản lý Nhà nước, các đơn vị bộ đội, các tổ chức xã hội, các hợp tác xã được công nhận theo điều lệ hiện hành, các tổ sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp được phép kinh doanh và có tài khoản ở ngân hàng đều phải ký kết hợp đồng kinh tế nếu có quan hệ kinh tế với nhau.

Điều lệ cũng đã nêu rõ trách nhiệm của người phụ trách đơn vị kinh tế cơ sở, của ban quản trị của hợp tác xã và của tổ trưởng sản xuất, trách nhiệm của cả tập thể cán bộ, công nhân viên trong đơn vị, của xã viên trong hợp tác xã, của các cơ quan quản lý cấp trên, cơ quan quản lý chức năng và của cơ quan trọng tài kinh tế các ngành, các cấp. Nhà nước sử dụng công cụ pháp lý này để đề cao trách nhiệm và tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối quan hệ kinh tế giữa các đơn vị, tổ chức, cơ quan nhằm thúc đẩy hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch, đồng thời chấp hành đầy đủ các chính sách, chế độ, thể lệ về quản lý kinh tế của Nhà nước.

II- TRÁCH NHIỆM CỤ THỂ CỦA CÁC NGÀNH, CÁC CẤP TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG KINH TẾ

1- Trách nhiệm của đơn vị kinh tế cơ sở và của thủ trưởng đơn vị.

Đơn vị kinh tế cơ sở (danh từ gọi chung các xí nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã, các tổ sản xuất được ký kết hợp đồng kinh tế) là nơi trực tiếp thực hiện kế hoạch Nhà nước, làm ra sản phẩm, tạo ra thu nhập quốc dân, tích luỹ vốn đề tái sản xuất mở rộng, đảm bảo sự cân đối trong nền kinh tế quốc dân và phúc lợi cho cán bộ, công nhân, viên trong đơn vị, xã viên trong hợp tác xã. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của một đơn vị đều có liên quan đến nhiều đơn vị khác và các cơ quan quản lý của Nhà nước, do đó đơn vị phải ký kết và thực hiện tốt hợp đồng kinh tế.

Đơn vị kinh tế cơ sở chủ thể của hợp đồng mà thủ trưởng, Chủ nhiệm hợp tác xã hoặc tổ trưởng tổ sản xuất là người đại diện ký vào hợp đồng. Vì vậy việc thay đổi thủ trưởng, chủ nhiệm, tổ trưởng (do chết, chuyển công tác khác hết nhiệm kỳ ...) sau khi ký kết hợp đồng không hề làm giảm trách nhiệm của đơn vị trong việc thực hiện hợp đồng kinh tế đó. Thủ trưởng một mặt phải nắm vững các chính sách, chế độ, thể lệ về quản lý kinh tế và hạch toán kinh tế, các chỉ tiêu kế haọch Nhà nước cũng như phương hướng sản xuất kinh doanh của đơn vị, mặt khác phải tận dụng những phương tiện sẵn có của đơn vị kết hợp việc ký kết hợp đồng kinh tế với công tác kế hoạch hoá làm sao cho hợp đồng kinh tế phát huy được tác dụng tích cực cả trong khâu xây dựng lẫn khâu thực hiện kế hoạch (phải ký kết hợp đồng kinh tế ngay từ khi có sổ kiểm tra, sau khi có kế hoạch chính thức thì điều chỉnh bổ sung lại cho phù hợp).

Nội dung hợp đồng kinh tế phải là kết quả của một công trình nghiên cứu tập thể, thủ trưởng đơn vị, chủ nhiệm hợp tác xã và tổ trưởng tổ sản xuất phải cùng các đoàn thể quần chúng đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, động viên toàn thể cán bộ, công nhân, nhân viên, xã viên hợp tác xã tận dụng mọi tiềm lực của đơn vị, phát huy sáng kiến để khắc phục các khó khăn mắc mứu. Trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế, hai bên ký kết phải luôn luôn có tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, thông cảm lẫn nhau đè cùng bàn bạc một cách dân chủ, bình đẳng nhằm thống nhất được với nhau về các điều khoản cam kết với tinh thần tự chịu trách nhiệm trước cấp trên của mình. Thủ trưởng đơn vị có thể tạm thời thoả thuận với bên cùng ký kết về những vấn đề chưa có quy định nhằm đảm bảo việc ký kết hợp đồng kinh tế được tiến hành đúng thời gian quy định và đúng yêu cầu (trường hợp này phải báo cáo ngay cơ quan quản lý cấp trên để xin ý kiến giải quyết). Thủ trưởng còn phải tranh thủ sự lãnh đạo của các cơ quan quản lý cấp trên để giải quyết các mắc mứu khó khăn về chi tiêu, về cơ sở vật chất, kỹ thuật, về chính sách chế độ vượt quá quyền hạn giải quyết của đơn vị kinh tế cơ sở.

Hợp đồng kinh tế phải được ký kết theo số kiểm tra, phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch. phải ký kết hợp đồng kinh tế với tinh thần vượt số kiểm tra và chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước giao. Có thể ký kết hợp đồng ngoài chỉ tiêu kế hoạch của cấp trên giao để tạo thêm sản phẩm cho xã hội nhưng không được làm làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính cuả mình. Nội dung hợp đồng kinh tế không được trái với các chính sách, chế độ thể lệ hiện hành về quản lý kinh tế của Nhà nước.

2- Trách nhiệm của các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố, các cơ quan quản lý cấp trên.

a) Các Bộ, Tổng cục quản lý theo ngành, các Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố quản lý theo lãnh thổ, Bộ, Tổng cục và Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm trước Hội đồng Chính phủ trong việc quản lý các đơn vị kinh tế trong ngành, trong địa phương.

Căn cứ vào tinh thần của các quy định trong điều lệ thì trách nhiệm của các cơ quan nói trên bao gồm:

- Phân bổ kịp thời các số kiểm tra và chỉ tiêu kế hoạch chính thức đến các đơn vị cơ sở trực thuộc (không được giao thấp hơn các chỉ tiêu pháp lệnh cuả Nhà nước ban hành);

- Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các đơn vị cơ sở trực thuộc ký kết hợp đồng kinh tế đúng thời hạn quy định (hoặc điều chỉnh hợp đồng kinh tế khi có kế hoạch chính thức) và thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng kinh tế đã ký kết. Hướng dẫn ở đây là hướng dẫn việc thực hiện các chế độ, thể lệ cũng như trong việc xác lập quan hệ ai ký với ai, hướng dẫn nội dung tuỳ theo từng chủng loại hợp đồng, tạo điều kiện cho việc ký kết được tiến hành tốt, nhanh, gọn.

- Kịp thời giải quyết các mắc mứu được phát hiện một cách tích cực và có hiệu quả.

Những quy định về trách nhiệm cuả các cơ quan quản lý cấp trên là vừa đề cao nghĩa vụ của các quy định này đối với các cơ sở trực thuộc trong việc thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước, vừa tôn trọng tính tự chịu trách nhiệm và tính chủ động của đơn vị cơ sở trong sản xuất kinh doanh của mình. Tính chủ động và tính tự chịu trách nhiệm của đơn vị cơ sở phải được kết hợp chặt chẽ với sự chỉ đạo của các cơ quan quản lý cấp trên.

b) Trong mọi hoạt động kinh tế nhất là trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước thì giữa ngành với ngành, cấp với cấp và giữa ngành và cấp với nhau đều có sự quan hệ mật thiết trên các mặt sản xuất, xây dựng, vận chuyển, cung cáp tiêu thụ ... Mối quan hệ này được thể hiện bằng các loại văn bản chỉ đạo ký kết giữa các cơ quan quản lý với nhau và các văn bản này phải bảo đảm đề cao tinh thần trách nhiệm và tăng cường sự hợp tác giưã các ngành, các cấp. Do đó từ nay giữa các cơ quan quản lý với nhau không ký những hợp đồng nguyên tắc như trước đây, nhưng như thế không có nghĩa là giảm bớt hoặc làm lỏng lẻo mối quan hệ phải có giữa các cơ quan quản lý mà ngược lại chính là xác định rõ thêm trách nhiệm của các cơ quan này trong việc chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế và trong việc chỉ đạo các đơn vị kinh tế cơ sở.

Chỉ thị số 235-TTg ngày 23-6-1975 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức xây dựng kế hoạch Nhà nước năm 1976 đã quy định: "Các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố cần thông báo với nhau về những chỉ tiêu có liên quan, phối hợp chỉ đạo các đơn vị cơ sở triển khai việc ký kết các hợp đồng kinh tế ngay từ khi nhận được số kiểm tra để làm căn cứ xác định các chỉ tiêu kế hoạch sát với yêu cầu và khả năng thực tế" Điều 6 của bản điều lệ cũng ghi rõ là khi phân bổ số kiểm tra và chỉ tiêu kế hoạch, các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố phải chủ động và kịp thời thông báo những phần cần thiết cho các cơ quan có liên quan biết.

Thông báo phải ghi rõ những đơn vị nào phải ký kết hợp đồng kinh tế, các quy định làm căn cứ cho các đơn vị đó tiến hành ký kết. Chỉ tiêu phân bố, khi tổng hợp lại, không được thấp hơn chỉ tiêu pháp lệnh cuả Nhà nước giao. Nếu là chỉ tiêu giao chung cho nhiều đơn vị kinh tế cơ sở thì thông báo phải ghi rõ phần của từng đơn vị phải thực hiện.

Khi nhận được thông báo mà thấy có điểm chưa nhát trí hoặc khi các đơn vị cơ sở phát hiện các mắc mưu mà bản thân đơn vị không giải quyết được thì các cơ quan quản lý đồng cấp phải cùng nhau bàn bạc để thống nhất ý kiến chỉ đạo các đơn vị cơ sở thực hiện bằng các văn bản chỉ đạo.

Không thông báo kịp thời và đẩy đủ, không bàn bạc đến nơi đến chôn để giải quyết các mắc mứu khó khăn cho đơn vị cơ sở hoặc trong chỉ đạo của mình có điều gì thiếu soát gây thiệt hại cho cơ sở trong việc ký két và thực hiện hợp đồng kinh tế thì các cơ quan quản lý cấp trên phải chịu trách nhiệm.

3- Trách nhiệm của cơ quan quản lý chức năng

Các cơ quan quản lý chức năng (kế hoạch, tài chính, ngân hàng, giá cả0 là những cơ quan tổng hợp có quan hệ rất mật thiết đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế và xét xử các vụ tranh chấp hoặc vi phạm hợp đồng, vì vậy các cơ quan này đều có đại biểu là thành viên cuả Hội đồng trọng tài kinh tế.

Việc xét duyệt giá, việc giải quyết các mắc mứu về chỉ tiêu kế hoạch, việc cho vay, cấp phát vốn là rất cần thiết để thúc đẩy việc ký kết nhanh gọn, thực hiện đầy đủ và thanh lý sòng phẳng các hợp đồng kinh tế.

Trong khâu ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế nếu các bên ký kết họp bàn về những vấn đề có liên quan đến chỉ tiêu kế hoạch, giá cả, tài chính, ngân hàng thì các cơ quan quản lý chức năng cần cử cán bộ đến dự để hướng dẫn giúp đỡ về mặt nghiệp vụ nhằm kịp thời giải quyết các vấn đề đó, hạn chế các vụ khiếu nại đến cơ quan trọng tài kinh tế. Trường hợp Hội đồng trọng tài kinh tế tiến hành xét xử các vụ tranh chấp hoặc vi phạm hợp đồng kinh tế, các cơ quan quản lý chức năng có trách nhiệm để xuất ý kiến để giải quyết những vấn đề có liên quan đến ngành mình đồng thời hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị trong ngành chấp hành các quyết định xét xử của Hội đồng trọngtài kinh tế.

4- Trách nhiệm của cơ quan trọng tài kinh tế các ngành, các cấp.

Trách nhiệm của Hội đồng trọng tài kinh tế các ngành, các cấp đã được quy định rõ trong bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế, điều lệ về tổ chức và hoạt động của Hội đồng trọng tài kinh tế Nhà nước (ban hành kèm theo Nghị định số 75/C P của Hội đồng Chính phủ ngày 14-4-1975) và bản hướng dẫn xây dựng điều lệ về tổ chức và hoạt động của Hội đồng trọng tài kinh tế các ngành, các cấp (công văn số 341-HĐ ngày 7-5-1975 của Hội đồng trọng tài kinh tế.

Tổ chức và hoạt động của Hội đồng trọng tài kinh tế mỗi ngành, mỗi cấp là theo nguyên tắc quản lý theo ngành và theo cấp, do đó Hội đồng trọng tài kinh tế các Bộ, Tổng cục, tỉnh, thành phố chỉ thanh tra việc trì hoãn ký kết hợp đồng kinh tế và xét xử các vụ tranh chấp hoặc vi phạm hợp kinh tế trong phạm vi nội bộ, Tổng cục, một địa phương. Thanh tra việc trì hoãn ký kết giữa các đơn vị không thuộc một ngành, một địa phương hay xét xử các vụ tranh chấp hoặc vi phạm hợp đồng giữa các đơn vị không thuộc một ngành, một địa phương đó là thuộc trách nhiệm của Hội đồng trọng tài kinh tế Nhà nước.

Để đảm bảo cho việc xét xử được tiến hành khẩn trương và kịp thời đối với những vụ tranh chấp hoặc vi phạm hợp đồng kinh tế có liên quan đến các hợp tác xã, các tổ sản xuất thì hợp đồng kinh tế Nhà nước thường xuyên uỷ quyền cho các Hợp đồng kinh tế địa phương xét xử như sau:

a) Các vụ tranh chấp hoặc vi phạm giữa một bên là hợp tác xã, tổ sản xuất với một bên là các xí nghiệp quốc doanh cơ quan Nhà nước trực thuộc trung ương, các đơn vị bộ đội đóng cùng trong một địa phương với hợp tác xã, tổ sản xuất đó hoặc đóng ở một địa phương khác thì hợp đồng kinh tế địa phương nơi có hợp đồng kinh tế xét xử.

b) Các vụ tranh chấp hoặc vi phạm giữa hai hợp tác xã, tổ sản xuất thuộc hai địa phương khác nhau quản lý thì Hội đồng trọng tài kinh tế địa phương của bên bị khiếu nại xét xử.

Đối với những vụ tranh chấp hoặc vi phạm không thuộc một ngành, một địa phương hay giữa trung ương và địa phương, thì các đương sự phải gửi đơn khiếu nại đến Hội đồng trọng tài kinh tế Nhà nước, Hội đồng trọng tài kinh tế Nhà nước nghiên cứu và nếu thấy sự việc không lớn, nội dung không quan trọng sẽ tuỳ tính hình cụ thể của từng vụ mà uỷ quyền cho Hội đồng trọng tài kinh tế một địa phương xét xử.

Trong các trường hợp uỷ quyền xét xử như trên nếu các đương sự không tán thành quyết định xét xử của Hội đồng trọng tài kinh tế địa phương thì có quyền kháng cáo lên Chủ tịch Hội đồng trọng tài kinh tế Nhà nước xét xử lại.

Khi xét xử, Hội đồng trọng tài kinh tế các ngành, các cấp chỉ triệu tập các đương sự, các cơ quan quản lý chức năng, các đại diện của cácư cơ quan, tổ chức khác có liên quan và mời một số cán bộ có năng lực nắm vững vấn đề đến tham dự xét xử bằng hình thức liên tịch giữa hai Hội đồng trọng tài kinh tế từ nay bãi bỏ.

III- MỘT SỐ ĐIỂM CẦN ĐƯỢC CHÚ Ý TRONG BẢN ĐIỀU LỆ

1- Tư cách pháp nhân của các bên ký kết hợp đồng kinh tế

Điều 2 của bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế đã xác định rõ các đơn vị, tổ chức, cơ quan tham gia ký kết hợp đồng kinh tế . Đó là những đơn vị có đủ tư cách pháp nhân được Nhà nước thành lập hoặc thừa nhận, có tài sản riêng và có trách nhiệm độc lập về tài sản đó, có tài khoản ở ngân hàng. Các tổ chức xã hội có đủ tư cách pháp nhân phải là những tổ chức được Nhà nước công nhận và cũng có tài khoản ở Ngân hàng.

Như thế là những hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các đơn vị có đủ tư cách pháp nhân, khi có tranh chấp đều do Hội đồng trọng tài kinh tế xét xử, trái lại những hợp đồng được ký kết giữa các đơn vị không có đủ các điều kiện nêu trên thì vẫn có gía trị pháp lý nhưng khi có tranh chấp thì không thuộc thẩm quyền xét xử của Hội đồng trọng tài kinh tế các ngành, các cấp.

2- Miễn ký kết hợp đồng kinh tế

Chỉ được miễn ký kết hợp đồng kinh tế trong các trường hợp sau đây:

a) Khi phải thi hành lệnh đặc biệt và khẩn cấp bằng văn bản như đã nói trong bản điều lệ. Có nghĩa là những lệnh có tính chất khẩn trương, đòi hỏi phải thi hành ngay, nếu để chậm trễ sẽ có ảnh hưởng đến tính mệnh và tài sản cuả nhân dân, gây thiệt hại lớn cho nhiệm vụ quân sự, chính trị và kinh tế của Đảng và Nhà nước . Các lệnh đó phải rất hạn chế và phải có văn bản (nếu ra lệnh bằng miệng thì phải có văn bản xác nhận sau).

Cơ quan có thẩm quyền ra lệnh phải cân nhắc kỹ lưỡng, suy tính lợi hại, quy định những nguyên tắc, điều kiện thi hành, chỉ định những nguyên tắc, điều kiện thi hành, chỉ định những đơn vị thực hiện và thanh toán, đồng thời phải lường trước những mắc mứu, khó khăn có thể gây ra cho các đơn vị khác do tác động dây chuyền của việc thi hành lệnh để có biện pháp giải quyết.

b) Đối với những hoạt động kinh tế có tính chất đặc biệt được Hội đồng Chính phủ cho phép (quan hệ kinh tế có liên quan đến các nhiệm vụ chính trị và quốc phòng hoặc có liên quan đến các bí mật quốc gia).

c) Đối với những giao dịch nhất thời, đột xuất thực hiện và thanh toán xong trong một lần, tức là những việc không thường xuyên lặp đi lặp lại, không có kế hoạch hoặc dự định trước, giao nhận nhanh gọn, đã có quy tắc rõ ràng, trách nhiệm của các bên hữu quan đã được xác định cụ thể.

Việc miễn ký kết hợp đồng kinh tế chỉ được áp dụng vào 3 trường hợp nói trên, không được lợi dụng các trường hợp đó để dễ làm ăn tuỳ tiện, lẩn trốn trách nhiệm.

Cả 3 trường hợp được miễn ký kết hợp đồng kinh tế, khi có tranh chấp,. vẫn được xét xử theo chế độ, thể lệ hiện hành và bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế.

3- Giá trị pháp lý của hợp đồng kinh tế ký kết khi có số kiểm tra. phải ký kết hợp đồng kinh tế ngay từ khi có số kiểm tra là để gắn liền kế hoạch với thị trường, lấy đó làm căn cứ để xác dịnh các chỉ tiêu kế hoạch sát với yêu cầu và khả năng thực tế. Nó còn có tác dụng làm cho các bên ký kết có thể tiến hành sản xuất kinh doanh ngay từ tháng đầu, quý đầu của năm kế hoạch, khắc phục tình trạng chờ đợi ký kết hợp đồng kinh tế thường xảy ra từ trước đến nay.

Hợp đồng kinh tế được ký kếtt sau khi có số kiểm tra là hợp đồng chính thức. Khi chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước được ban hành, các hợp đồng đó sẽ được điều chỉnh hoặc được bổ sung theo chỉ tiêu kế hoạch sửa đổi những điểm cụ thể hay cụ thể hoá thêm cho rõ ràng đầy đủ.

Căn cứ vào hợp đồng đã được ký kết, các bên ký kết xúc tiến ngay việc chuản bị thực hiện, không phải chờ đến khi có kế hoạch chính thức. Khi bắt đầu năm kế hoạch mà chưa có kế hoạch chính thức thì các hợp đồng được ký kết trước sẽ có giá trị pháp lý cho đến khi có kế hoạch chính thức. Trong phạm vi nông nghiệp phải sản xuất theo đúng thời vụ, nên các hợp đồng kinh tế phải được ký kết tước thời vụ sản xuất và có giá trị thực hiện ngay.

4- Từ chối trì hoãn ký kết hợp đồng kinh tế

Ký kết hợp đồng kinh tế là một kỷ luật bắt buộc. Khi một bên đã trực tiếp thương lượng với bên kia mà bên kia chính thức trả lời không ký hoặc để quá kỳ hạn quy định cho việc ký kết hợp đồng đã có đầy đủ điều kiện, kể cả đã có sự chỉ đạo thống nhất của 2 cơ quan quản lý cấp trên mà vẫn không chịu tiến hành ký kết hợp đồng thì bị coi là từ chối ký kết hợp đồng kinh tế . Lảng tránh ký kết, giữ im lặng không trả lời những đề nghị ký kết, lần lữa, kéo dài kỳ hạn ký kết mà không có lý do chính đáng thì gọi là trì hoãn ký kết.

Từ chối, trì hoãn ký kết hợp đồng kinh tế cũng như ký thấp hơn chỉ tiêu pháp lệnh, ký kéo dài kỳ hạn thực hiện chỉ tiêu kế hoạch vi phạm các hợp đồng kinh tế được ký kết, đều bị Hội đồng trọng tài kinh tế xét xử.

Khi xảy ra từ chối, trì hoãn ký kết hợp đồng kinh tế, nếu bên đề nghị đã cố gắng thuyết phục, thương lượng với bên kia và các cơ quan quản lý có thẩm quyền đã có quyết định giải quyết mà không có kết quả thì bên bị từ chối, trì hoãn ký kết phải khiếu nại đến Hội đồng trọng tài kinh tế.

5- Nội dung các hợp đồng kinh tế

Hợp đồng kinh tế là một văn bản pháp lý nên nội dung hợp đồng phải hết sức rõ ràng, cụ thể, chính xác. Đó là những căn cứ để thực hiện hợp đồng kinh tế đồng thời cũng là cơ sở để xác định trách nhiệm khi xảy ra vụ vi phạm. Cụ thể và chính xác có nghĩa là làm sao để cùng một câu, một ý mà các bên ký kết đều có một quan điểm thống nhất, tránh được tình trạng mỗi bên giải thích một cách có lợi cho mình nhưng lại làm thiệt hại cho bên cùng ký kết. ngoài ra, nội dung này còn phải được hai bên bàn bạc dân chủ, thành thật trao đổi thông cảm lẫn nhau trên tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, lường trước các khó khăn để có biện pháp giải quyết, chứ không bên nào được lợi dụng ưu thế của mình để bắt buộc bên cùng ký kết chấp nhận những điều kiện không thoả đáng. Điều 10 của điều lệ quy định nội dung hợp đồng không được in sẵn cũng là để đảm bảo tinh thần trên.

Nội dung không được in sẵn nghĩa là không được in sẵn những điều khoản mà hai bên cần có sự bàn bạc chứ không có nghĩa là không được in sẵn các tiêu đề, các mẫu hợp đồng, các công việc giao dịch có tính chất ổn định, các biện pháp thực hiện thường xuyên không có thay đổi.

Những hợp đồng không ghi các điểm quy định ở mục a, b, của Điều 11 bản điều lệ, không ghi số lượng, chất lượng, giá cả (giá đơn vị và tổng giá trị) phương thức thanh toán đều coi là không hợp lệ.

Thủ trưởng đơn vị ký kết có trách nhiệm ký vào bản hợp đồng kinh tế. Thủ trưởng đơn vị có thể uỷ quyền cho người khác ký thay nhưng giấy uỷ quyền phải do thủ trưởng trực tiếp ký, không ai được ký thay thế.

Trong hợp đồng kinh tế, ngoài chữ ký của thủ trưởng của các bên ký kết (hoặc người được uỷ quyền) còn phải có chữ ký của kế toán trưởng với nhiệm vụ đảm bảo vốn để thanh toán và trả phạt, trả bồi thường. Chữ ký của kế toán trưởng bảo đảm hợp đồng đã được kiểm tra kỹ lưỡng, nó gắn liền kế toán trưởng với thủ trưỏng trong việc chịu trách nhiệm về mặt vật chất và hiệu lực của hợp đồng.

Đối với cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế chưa có kế toán trưởng thì trưởng phòng tài vụ phải ký vào hợp đồng. Những hợp đồng kinh tế của các đơn vị bộ đội, đơn vị công an vũ trang cũng phải có chữ ký của người phụ trách tài vụ cuả đơn vị theo quy định phân cấp của Bộ Quốc phòng và của Bộ tư lệnh công an nhân dân.

6-Phạt và bồi thường

Điều 19 của bản điều lệ đã quy định tiền phạt thì trích ở quỹ phúc lợi và nộp vào ngân sách Nhà nước, còn tiền bồi thường thì hạch toán vào chi phí quản lý xí nghiệp.

Quy định trên áp dụng đối với các đơn vị hạch toán kinh tế khu vực quốc doanh còn đối với khu vực kinh tế tập thể thì sẽ có văn bản riêng.

Trong khi chờ đợi văn bản này được ban hành, mỗi khi xét xử một vụ tranh chấp có liên quan đến một bên là xí nghiệp quốc doanh, một bên là hợp tác xã hoặc tổ sản xuất, thì đối với xí nghiệp quốc doanh nhất thiết phải áp dụng điều 19 nói trên còn đối với hợp tác xã, tổ sản xuất thì Hội đồng trọng tài kinh tế địa phương xin ý kiến Uỷ ban hành chính tỉnh quyết định trích ở quỹ nào. Hướng giải quyết này cũng áp dụng cả với vụ tranh chấp hoặc vi phạm giữa các hợp tác xã có ký kết hợp đồng kinh tế với nhau.

IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN BẢN ĐIỀU LỆ VỀ CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG KINH TẾ

Trên đây là một số điểm hướng dẫn thực hiện bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế. Những phần có liên quan đến công tác kế hoạch hoá, tài chính, ngân hàng, giá cả sẽ có các Thông tư liên bộ giải thích thêm. Hội đồng trọng tài kinh tế Nhà nước yêu cầu các Bộ, Tổng cục, các Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố và Hội đồng trọng tài kinh tế các ngành, các cấp kịp thời phổ biến đến tận cơ sở thuộc mình quản lý để mọi người quán triệt đầy đủ tinh thần và nội dung của bản điều lệ. Điều lệ không chỉ đề cập đến những đường lối mà xác định nhiều biện pháp thực hiện, góp phần cải tiến công tác quản lý kinh tế, cải tiến công tác kế hoạch hoá, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thiết thực phục vụ cho kế hoạch Nhà nước năm 1975 và kế hoạch dài hạn 5 năm tới.

Việc chấp hành bản điều lệ này đòi hỏi vừa phải kết hợp vận dụng đường lối chính sách một cách sáng tạo trong hoàn cảnh nền kinh tế của ta còn nhiều khó khăn, vừa phải đấu tranh khắc phục phương thức quản lý hành chính, cung cáp, xoá bỏ tư tưởng cục bộ, bản vị, gia đình chủ nghĩa.

Đây là một bản điều lệ vận dụng cho một thời gian dài mà trước mắt việc chấp hành có thể có những trở ngại nhất định,. Hội đồng trọng tài kinh tế Nhà nước đề nghị thủ trưởng các ngành, các cấp và yêu cầu Hội đồng trọng tài kinh tế Bộ, Tổng cục, Tỉnh, thành phố cứ mạnh dạnh vừa làm vừa rút kinh nghiệm, nếu có mắc mứu xin kịp thời phản ánh về Hội đồng trọng tài kinh tế Nhà nước giải quyết hoặc trình Chính phủ bổ sung điều lệ.

Đối với các vụ tranh chấp có liên quan đến các hợp đồng kinh tế được ký kết trong các năm trước thì vẫn phải vận dụng điều lệ này nhưng có chiếu cố đến tình hình cụ thể trước đây. Vì bản điều lệ có hiệu lực thi hành kể từ ngày được ban hành nên trong việc chuẩn bị cho kế hoạch năm 1976 tới đây, nhất thiết phải chấp hành điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế này một cách nghiêm chỉnh.

 

Nguyễn Quang Xá

(Đã ký)

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 525-HĐTTKTNN

Loại văn bảnThông tư
Số hiệu525-HĐTTKTNN
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành10/03/1975
Ngày hiệu lực23/06/1975
Ngày công báo...
Số công báo
Lĩnh vựcThương mại
Tình trạng hiệu lựcHết hiệu lực 24/05/1990
Cập nhật7 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Download Văn bản pháp luật 525-HĐTTKTNN

Lược đồ Thông tư 525-HĐTTKTNN hướng dẫn Nghị định 54-CP bản Điều lệ chế độ hợp đồng kinh tế


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản sửa đổi, bổ sung

        Văn bản bị đính chính

          Văn bản được hướng dẫn

            Văn bản đính chính

              Văn bản bị thay thế

                Văn bản hiện thời

                Thông tư 525-HĐTTKTNN hướng dẫn Nghị định 54-CP bản Điều lệ chế độ hợp đồng kinh tế
                Loại văn bảnThông tư
                Số hiệu525-HĐTTKTNN
                Cơ quan ban hànhHội đồng Trọng tài kinh tế Nhà nước
                Người kýNguyễn Quang Xá
                Ngày ban hành10/03/1975
                Ngày hiệu lực23/06/1975
                Ngày công báo...
                Số công báo
                Lĩnh vựcThương mại
                Tình trạng hiệu lựcHết hiệu lực 24/05/1990
                Cập nhật7 năm trước

                Văn bản được dẫn chiếu

                  Văn bản hướng dẫn

                    Văn bản được hợp nhất

                      Văn bản được căn cứ

                        Văn bản hợp nhất

                          Văn bản gốc Thông tư 525-HĐTTKTNN hướng dẫn Nghị định 54-CP bản Điều lệ chế độ hợp đồng kinh tế

                          Lịch sử hiệu lực Thông tư 525-HĐTTKTNN hướng dẫn Nghị định 54-CP bản Điều lệ chế độ hợp đồng kinh tế