Nội dung toàn văn Thông tư liên bộ 10-TT-LB quy định tạm thời thanh toán ngân sách Nhà nước thuế nông nghiệp thu bằng thóc lương thực
BỘ TÀI CHÍNH-TỔNG CỤC LƯƠNG THỰC | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ |
Số: 10-TT-LB | Hà Nội, ngày 04 tháng 05 năm 1964 |
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
QUY ĐỊNH TẠM THỜI VIỆC THANH TOÁN VỚI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC SỐ THUẾ NÔNG NGHIỆP THU BẰNG THÓC VÀ BẰNG CÁC LOẠI LƯƠNG THỰC KHÁC
Căn cứ vào quyết định số 164-CP ngày 31-10-1963 của Hội đồng Chính phủ tăng giá thu mua lương thực từ vụ mùa năm 1963, thông tư liên Bộ Tài chính - Tổng cục Lương thực số 01-TT-LB ngày 03-01-1964 đã quy đinh: “Giá để thanh toán tiền mua bán thóc thuế nông nghiệp giữa cơ quan tài chính và lương thực để nộp ngân sách là giá thóc tẻ tiêu chuẩn cấp I của Tổng cục Lương thực đã quy định ở các địa phương. Ở những tỉnh có hai vùng giá thì số thóc thu ở vùng nào sẽ thanh toán theo giá thóc tẻ tiêu chuẩn cấp I vùng đó”.
Với cách thanh toán như trên, hàng năm, ngân sách Nhà nước thu thêm một khoản về tăng giá bán thóc thuế nông nghiệp đồng thời phải cấp ra một khoản tiền lớn bù lỗ cho ngành lương thực (lỗ do mua vào theo giá cao và bán ra theo giá ổn định thấp hơn).
Để giải quyết một phần tình trạng bất hợp lý trên, sau khi đã được Chính phủ đồng ý, liên Bộ Tài chính Tổng cục Lương thực quyết định sửa lại giá thanh toán thóc và các loại lương thực khác thu thuế nông nghiệp như sau:
1. Đối với ngân sách trung ương, ngân sách tỉnh và thành phố, từ vụ mùa 1963 trở đi, cơ quan tài chính và lương thực thanh toán thóc và các loại lương thực khác thu thuế nông nghiệp theo một giá cố định và thống nhất cho toàn quốc là 225đ một tấn (hai trăm hai mươi nhăm đồng một tấn) không phân biệt chiêm hay mùa.
2. Đối với ngân sách xã, 13% thuế nông nghiệp vẫn tiếp tục thanh toán theo giá thu mua mới từng vùng, từ địa phương (xoay quanh 270đ một tấn thóc).
3. Ngô, các loại thóc nếp, thóc quý, thóc dì, bầu, cút… thóc các vùng bị thiên tai v.v… nói chung các loại thóc và lương thực khác thu thuế nông nghiệp, dù giá trị cao hơn hay thấp hơn giá trị thóc tẻ tiêu chuẩn, đều được thanh toán:
a) Với ngân sách Nhà nước: Theo giá cố định và thống nhất cho toàn quốc là 225đ một tấn không phân biệt chiêm, mùa.
b) Với ngân sách xã: Theo giá thu mua hiện hành áp dụng cho từng vùng, từng địa phương.
Quy định trên đây chỉ áp dụng cho việc thanh toán giữa hai cơ quan tài chính và lương thực đối với thóc và lương thực thuế nông nghiệp, còn đối với các loại thóc thu nợ, thóc thủy lợi phí, thóc trả công máy kéo, máy bơm v.v…, vẫn thanh toán theo thông tư số 01-TT-LB ngày 03-01-1964 (coi như thóc thu mua, tức là theo giá thu mua hiện hành).
Những nông hộ và hợp tác xã vụ trước đã nộp quá mức thuế phải thu, thì số thuế nộp thừa hoặc được trừ vào số thuế phải nộp kỳ này, hoặc được hoàn lại bằng tiền. Do quy định trên về phần thuế thừa lại bằng tiền, cơ quan tài chính chịu 0đ225 một ki-lô, cơ quan lương thực chịu 0đ045 hoặc 0đ055 tức là phần chênh lệch giữa giá thu mua mới 0đ270 – 0đ280 và giá cố định 0đ225 một ki-lô.
Trong việc thu thuế bằng tiền, tận thu thuế thiếu bằng tiền, vẫn áp dụng thông tư số 01-TT-LB ngày 03-01-1964 tức là theo giá chỉ đạo thu mua hiện hành ở từng vùng, từng địa phương.
Thông tư này sửa đổi và bổ sung thông tư 01-TT-LB ngày 03-01-1964. Những điểm trong thông tư 01-TT-LB trái với tinh thần thông tư này đều bãi bỏ.
Những tỉnh đã thanh toán theo giá thu mua hiện hành, hoặc đã thanh toán nhanh trong quá trình thu thuế bằng một giá tạm thỏa thuận giữa hai cơ quan tài chính và lương thực thì nay đều phải thanh toán lại theo thông tư này.
Việc thanh toán điều chỉnh vụ đông 1963 giữa hai cơ quan tài chính và lương thực phải hoàn thành chậm nhất là ngày 31-05-1964 trước khi tiến hành thu vụ hạ 1964.
TỔNG CỤC TRƯỞNG | KT. BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH |